Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

NỖI NIỀM XA HUẾ (Tự sự))

               NỖI NIỀM XA HUẾ THÂN THƯƠNG
                                              Nguyễn Hồng Trân

Thế là tôi đành phải xa Huế lần thứ hai. Lần thứ nhất xa Huế gần 30 năm (1945- 1975). Lúc đó, tôi còn tuổi niên thiếu theo gia đình cha mẹ di chuyển nhiều nơi lo sinh sống, học hành… Ba tôi (Nguyễn Chương) cựu Cai lính Khố Vàng bảo vệ Đại Nội Huế. Sau ngày vua Bảo Đại thoái vị (chiều 30-8-1945), ông về quê ở Phú Long, Hải Lăng, Quảng Trị và tham gia vào bộ đội địa phương. Đến năm Đinh Hợi(1947), ông lâm bệnh thương hàn nặng và mất sớm (mới 34 tuổi đời đã vĩnh biệt cõi dương) để lại mẹ tôi (Phan Thị Cúc) mới hơn 30 tuổi đã bị góa bụa và ba anh em chúng tôi trong cảnh mồ côi cha, thật là xót xa đau khổ…
Phía sau bình phong tại lăng mộ cha tôi, tôi có ghi tạc một bài thơ:

    THƯƠNG TIẾC MẸ CHA

Đinh Hợi(1947) cha về với Tổ tiên
Mẹ buồn tủi phận dạ ưu phiền
Tiếc cha sự nghiệp còn dang dở
Thương mẹ cuộc đời quá bấp bênh
Ba đứa con côi đau thỉnh thoảng
Một mình mẹ góa bệnh thường xuyên
Bà con nội ngoại đều thông cảm
Giúp đỡ nhiệt tình mãi chẳng quên.

Trong lần đầu xa Huế thuở ấy, trong lòng tôi luôn luôn nhung nhớ bao điều kỷ niệm của tuổi thơ. Những âm thanh, hình ảnh của Huế xưa cứ hiện về trong tôi ngập tràn như giấc mộng. Thật mến thương! Thật xúc động!
Nhớ lại cái cảnh ban đêm cuối tuần, ba tôi thường gọi cô gánh chè Huế bán rong vào trước hiên rồi đãi cả nhà ăn các loại chè tùy ai ưa thích. Mọi người cảm thấy mùi vị các loại chè rất thơm ngon, ngọt ngào, hấp dẫn… Tôi và ba tôi thường ăn nhiều hơn mẹ và các em tôi. Khi nhớ lại kỷ niệm ấy, tôi cảm tác làm một bài thơ:

 TIẾNG RAO CHÈ HUẾ TRONG ĐÊM (*)

“Ai chè đậu ván, đậu xanh,
Hạt sen, bắp nếp ngọt lành thơm ngon”.
Tiếng rao trong trẻo véo von,
Không gian xứ Huế vẫn còn như xưa.
Mùi chè thơm phức đêm khuya,
Khát khao trong dạ, thêm vừa lòng nhau.
Luyến lưu tình nghĩa trước sau,
Bao nhiêu kỷ niệm thuở nào còn đây.
Vấn vương chè Huế tháng ngày,
Bâng khuâng, thổn thức nhớ ai trong lòng…
Tiếng rao văng vẳng bên song,
Như gợi nỗi nhớ, chờ mong đêm hè.
Gió đưa thơm phức mùi chè,
Lòng ta thấm đậm tình quê dạt dào.
Giờ đây vắng vẻ tiếng rao,
Tìm đâu mùi vị ngọt ngào chè đêm?...
                                                NHT
Trải qua những diễn biến của xã hội  chiến tranh cho đến hòa bình và đât nước ta bị chia cắt ra hai miền Bắc Nam. Tôi tập kết ra miền Bắc lo chăm chỉ học hành cho thành đạt. Tốt nghiệp Đại học, tôi công tác ở Hà Nội trong ngành giáo dục đào tạo Đại học.
Sau ngày hòa bình thống nhất đất nước, tôi lại trở về Huế (1976) theo nghề dạy học và làm Giảng viên chính tại trường Đại học Tổng hợp Huế (về sau đổi tên thành trường Đại khoa học –Huế). Có một thời gian tôi kiêm làm Giám đốc Trung tâm thông tin thư viện nhà trường. Sau đó tôi về nghỉ hưu năm 1999 tại nhà riêng (gần sông An Cựu) ở vùng Phủ Cam, Phước Vĩnh, tp. Huế. Từ khi gia đình tôi vào Huế năm Bính Thìn(1976), vợ tôi là bác sĩ Y khoa-Thái Lê Phương, đã từng phục vụ công tác y tế ở chiến trường Trị Thiên vẫn còn sống và trở về Huế sum họp gia đình. Vợ chồng tôi đón mẹ tôi ở quê vào sống chung để được chăm sóc mẹ già sau mấy chục năm xa cách Bắc Nam. Đến năm Canh Dần (2010) thì mẹ tôi qua đời, hưởng thượng thọ 96 tuổi. Thế là hơn 30 năm trời chúng tôi đã có phúc phận được chăm lo nuôi dưỡng người mẹ già cho đến lúc tạ thế về với Tổ tiên.
Đến nay, tôi cũng đến tuổi “gần đất xa trời” (76), quỹ thời gian của cuộc đời không còn bao lâu nữa, vì lo cho tuổi già sức yếu, nên hai vợ chồng đành phải ra Hà Nội ở để nhờ con cháu chăm sóc khi ốm đau, kiệt sức.
Chuyện phải xa Huế lần thứ hai này là bất đắc dĩ thôi, chúng tôi không muốn như vậy. Vì chẳng còn ai ruột thịt với chúng tôi ở Huế nữa. Tôi cứ tưởng rằng, tuổi thơ mình đã từng ở Huế; quê gốc của tôi cũng ở Huế (làng Phú Xuân), thì tuổi già “lá rụng về cội” là hợp với lẽ đời xưa nay người ta thường nói vậy. Hơn nữa, vợ chồng chúng tôi đang sống giữa lòng Cố đô Huế- một vùng đất nước trong lành; một vùng quần thể di sản văn hóa sáng giá của Thế giới thì thật là tuyệt vời mà nhiều người đã từng mơ ước đến Huế để chiêm ngưỡng. Nhưng ngược lại, thật đáng tiếc! cuối đời tôi lại phải xa Huế sau gần 40 năm về sống với đất Huế thân thương…
Lúc rời xa Huế lần này, bạn bè, đồng nghiệp, đồng chí của tôi đã gặp mặt liên hoan chia tay. Nhiều người đến trao tặng cho tôi những món quà lưu niệm như bức tranh, đĩa nhạc, bài thơ về Huế rất dễ thương và thật là ý nghĩa…
Giờ phút chia tay lên xe từ giã Huế, vợ chồng tôi được nhiều người ra tiễn đưa mà lòng bùi ngùi xúc động. Trên chuyến xe từ Huế ra Hà Nội, tôi rất buồn cứ lưu luyến nơi chốn cũ thành đô.
Khi ra đến nhà ở Hà Nội, những đêm đầu tôi không sao ngủ được, lòng tôi cứ vấn vương thương nhớ Huế vô cùng. Đêm khuya tôi thức dậy làm mấy vần thơ tâm tình:

Huế ơi! Tạm biệt Cố đô,
Bao năm gắn bó bây giờ đành xa.
Nỗi niềm da diết lòng ta,
Xa người, xa cảnh, xót xa dặm đường.
Ra đi lưu luyến vấn vương,
Mong ngày thăm lại Sông Hương Ngự Bình.

Ghi chú: (*)Ngày xưa gia đình tôi ở trong Kinh thành Huế, ba mẹ tôi rất thích ăn chè Huế ban đêm. Mỗi lần nghe tiếng rao chè Huế trong đêm là ba mẹ tôi đánh thức các con cùng dậy ăn chè cho vui.
Chè Huế có nhiều loại, ai thích ăn loại chè nào thì cứ xướng lên. Ba tôi thì thường thích ăn nhiều chè hạt sen, chè xanh đánh, còn mẹ tôi thích ăn chè đậu ván, chè trôi nước, tôi và các em tôi thì thích chè thập cẩm hoặc chè đậu đỏ hoặc chè nếp…
Phải nói rằng ở Huế món chè thật là phong phú và hương vị cũng rất hấp dẫn. Mỗi lần ăn chè cả nhà như thế rất vui và mọi người trong gia đình vừa ăn chầm chậm vừa chuyện trò một cách nhẹ nhàng, thi vị.
Bây giờ thì không còn những cảnh tượng đó nữa, nhưng trong tôi vẫn còn lưu lại những hình ảnh sum vầy gia đình trong đêm để thưởng thức các món chè của xứ Thần kinh Cố đô thật là thanh tao ý vị.
Tôi cứ nhớ mãi! Nhớ mãi nét mặt vui tươi của ba tôi; nét mặt hiền hậu của mẹ tôi; dáng vẻ nhí nhảnh, ngây thơ hớn hở của các em tôi trong những đêm chè Huế như vậy. Thật nhớ quá, nhớ quá thôi!!
                                  ==00==
Khu Đô thị Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội 19-4-2013