Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

ĐOÁN SỐ TỬ VI  KHOA HỌC KHOA HỌC HAY MÊ TÍN ?
                                       ===00===
Nguyễn Hồng Trân
                            
        Môn phái "số tử vi" (STV) từ Trung Quốc truyền sang Việt nam ta từ thủa xa xưa và cũng không ai biết được chính xác nó đã xuất hiện ở nước ta vào thời kỳ nào. Tuy vậy, qua các sách vở lưu truyền lại, người ta cũng đã biết ông Tổ sư của môn phái STV này là do ông Trần Đoàn tức là Hi Di Tử thời nhà Tống Trung Quốc (năm 966-980) sáng lập ra. Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Qúy Đôn cũng xác nhận như thế. Về sau, các nhà Tử Vi học cứ diễn dịch, triễn khai dần dần thành một môn Tử Vi chính thống. Ở Việt Nam ta cũng xuất hiện một số sách về STV của các tác giả như Vân Đằng Thái Thử Lang, Nguyễn Phước Lộc, Nguyễn Mạnh Bảo v.v...
        Cách thức lập lá số và phép luận giải rất bài bản, công phu. Cơ sở phương pháp luận của STV  là dựa vào thuyết "ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH". Do đo,vấn đề STV làm cho nhiều người xưa và nay càng thêm quan tâm tìm hiểu.

Thực ra vấn đề STV có hay, dở ra sao còn phụ  thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố khả năng, tài nghệ của người lý giải. Còn về mặt khoa học nó đạt mức độ nào cũng chưa ai đánh giá, tổng kết một cách khách quan, sát thực.
        Theo quan điểm của các nhà chiêm tinh học Trung Quốc đã cho hay rằng: mỗi con người ta sinh ra trong một thời điểm nào đó (năm, tháng, ngày, giờ  âm lịch) thì đều có các vì sao tương thích trong vũ trụ tác động vào cơ thể của người ấy và làm ảnh hưởng đến toàn diện cuộc đời nhân sinh về trí tuệ, tình cảm, sức khỏe, sở trường v.v... Từ đó, các nhà Tử Vi học đã nghiên cứu , sắp xếp và quy định được 14 vì sao chính và 97 sao phụ. Tất cả các loại sao đều được phân vị theo quy tắc kết hợp hoặc riêng biệt và tác động lên 12 cung đời của từng người trong bản đồ lá STV. Đó là các cung:   Bổn mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Ách tật, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ .
  
        Cung mệnh được an vị đầu tiên theo tháng và giờ sinh, còn các cung sau lần lượt theo chiều thuận kim đồng hồ mà định vị trong từng ô của lá số theo thứ tự: mệnh, phụ mẫu, phúc đức ... còn có cung thân không cố định riêng,là cung ngụ cư tại một cung nào đó, tuỳ theo đặc điểm của lá số Cung thân an vị cũng theo tháng và giờ sinh như cung mệnh chỉ khác là chiều tính giờ thì ngược lại.

        Các sao chính có 14 sao. Sao Tử  vi làm chủ hệ. Nó được an vị theo ngày sinh và phụ thuộc vào bản cục của đương số còn các sao khác phụ thuộc vào sao Tử Vi và định cư theo quy tắc riêng. Thí dụ: Sao Thiên phủ bao giờ cũng ở vị trí đối xứng qua đường chéo Dần - Thân của lá số. Nếu Tử Vi ở Tý thì Thiên phủ ở Thìn; Tử vi ở Tuất thì Thiên phủ ở Ngọ v.v... 14 sao chính được sắp xếp thành  hai vòng trong các ô của lá số.
Vòng thứ  nhất bắt đầu từ sao Tử Vi (cách 3 ô) đến sao Liêm trinh (cách 2 ô)đến sao Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương (cách 1 ô) đến Thiên Cơ. Vòng thứ hai từ sao Thiên Phủ; tiếp Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát (cách 3 ô) đến Phá Quân.
        Các sao phụ có nhiều loại như Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tuần, Triệt v,v... mỗi loại sao an vị theo cách riêng của nó.
        Quá trình luận giải lá STV gồm 2 bước: Bước đầu là sơ giải, bước sau là tinh giải. Bước sơ giải là xem xét yếu tố Sinh - Khắc giữa bản Cục và bản Mệnh như thế nào. Nếu Cục sinh Mệnh thì Mệnh thịnh Vượng. Thí dụ: Cục  Hỏa, Mệnh Thổ; Nếu Cục khắc Mệnh thì Mệnh suy. Thí dụ: Cục Thủy, Mệnh Hỏa. Sau đó phải xem sao Tử Vi đóng ở cung nào để biết ý nghĩa thuộc tính thuận nghịch ra sao ? Nếu sao Tử  Vi đóng tại cung Tý, Hợi, Mão, Dậu là bình địa (tức là bình thường); tại Sửu, Mùi là đắc địa (thuận lợi); tại Thìn, Tuất là vượng địa (khá thuận lợi);tại Dần, Thân, Tỵ Ngọ là Miếu địa (rất thuận lợi). Còn 13 sao chính khác thì có thêm thuộc tính hãm địa (bất lợi).
        Trong bước sơ giải này cũng phải liên hệ với các cung đời(Mệnh, Phụ, Phúc...) cung chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) để có được những thông tin về ý nghĩa.
        Lưu ý rằng: các cung chi thì luôn luôn cố định, còn các cung đời thì di động tùy thuộc vào cung mệnh mà các cung khác xếp đặt liên tiếp theo sau (như đã nêu ở trên). Riêng cung Thân là cung ngụ cư vào một cung khác nào đó thì phải chịu ảnh hưởng lớn vào cung ấy. Chẳng hạn Thân cư ở cung Mệnh  thì có nghĩa bản thân tự lập, tự làm nên sự nghiệp; nếu Thân cư ở cung Thê thì được nhờ vợ, phụ thuộc nhiều vào vợ, vợ định đoạt mọi việc trong nhà; Thân cư ở cung Quan lộc là nhờ vào con đường công danh, sự nghiệp mà phát đạt, có uy quyền tín nhiệm. Thông thường cung Thân được luận giải cho người từ 30 tuổi trở lên.
        Sang bước thứ hai là bước tinh giải. Bước này là giải tỷ mỷ, phải cân nhắc mức độ ảnh hưởng của từng sao chính và sao phụ ở trong từng cung, kết hợp với các phép xung chiếu, hợp chiếu để giải đóan. Trong đó quan trong nhất là xung chiếu (tức là dựa vào các sao có trong cung đối xứng qua tâm lá số).  Thí dụ: cung xung chiếu của cung Dần là cung Thân. Quá trình luận giải từng cung đời chủ yếu là phân tích ý nghĩa của từng sao trong cung chủ định rồi liên hệ với tính chất các sao trong xung chiếu rồi tổng hợp lại thành nội dung của vấn đề giải được. Chẳng hạn về cung Mệnh, Thân thì phải giải được về cốt cách, tinh thần, tính tình, vận mệnh, thọ yểu ra sao; cung Ách  tật thì giải xem về sức khỏe, bệnh tật, tai họa ở mức độ nào; cung Tử tức là xem con cái nhiều ít, con đầu trai hay gái, con cái dễ nuôi hay khó nuôi, có được nhờ con cái không v.v...
        Sau khi giải xong 12 cung đời là giải sang Đại hạn (10 năm) và Tiểu hạn (1 năm) để biết một số điều tác động đáng kể trong vòng hạn đó đến bản thân như thế nào...
        Qua gần 20 năm quan tâm tìm hiểu và luận giải STV cho nhiều người để nghiên cứu thực chất của vấn đề này, chúng tôi thấy rằng: tỷ lệ giải đúng theo sách so với thực tế chỉ đạt tới khoảng 60%  là cao nhất (đối với các cung Mệnh, Thân, Quan lộc, Tài bạch, Thiên di, Ách tật); các cung khác chỉ đúng khoảng 50% . Riêng các cung Phụ Mẫu, Phúc đức, Điền trạch tỷ lệ đúng là thấp nhất, chỉ độ 30%  mà thôi. Xin nêu dẫn chứng một trường hợp kỳ lạ là kết quả giải 2 lá STV cho hai anh em ruột mà một người thì bố mẹ thọ bách niên giai lão, còn người kia thì bố chết sớm, mẹ đi thêm bước nữa.
        Qua những thực tế mâu thuẫn đó, chúng tôi thấy rằng về cách thức luận giải lá STV theo sách vở xưa và nay của Tàu và ta thì thấy rằng vẫn có một cái gì đó chưa ổn. Những kết quả của luận giải có nhiều chỗ mâu thuẫn với thực tế của cuộc đời. Mặc dù quy trình tạo lập lá số và cách thức luận giải nội dung rất là bài bản; có quy tắc chặt chẽ, rõ ràng. Chính nhờ đó mà các nhà toán tin học của Việt Nam ngày nay đã tiến hành lập trình, tạo ra được các phần mềm chấm STV chạy được trên các máy vi tính hiện nay. Một trong những phần mềm STV có giao diện màn hình lá STV đầu tiên là phần mềm cuả Bảo Trân (ở Canada). Nhưng tiếc thay về phần luận giải lá số thì khó mà tin được. Vì kết quả giải ra thường cứ trùng lặp, giống nhau nhiều về nội dung trong những lá số khác nhau. Có lẽ "từ điển giải mã" của các nhà Tử vi học ngày xưa vẫn còn có những chỗ khiếm khuyết mà lâu nay chưa ai đủ điều kiện nghiên cứu thật sâu để bổ sung hoàn chỉnh. Cũng không phải vì thế mà chúng ta nghi ngờ rằng STV  là phương sách giả tạo của các nhà chiêm tinh học phong kiến thời xưa để nhằm ổn định tâm lý, đạo đức cho mọi người trong xã hội. Bởi vì các nhà Tử vi học không dễ dàng gì mà đánh lừa được nhiều nhà thông thái trong xã hội. Qua thực tế, cái gì thực sự  nghiệm đúng được nhiều thì người ta mới tin tưởng và nó mới tồn tại được  lâu dài. Chẳng hạn chuyện thực về Trần Thái Tông đã giải đoán STV và biết trước đuợc ngày mất của mình là ngày mồng một tháng tư năm Đinh Sửu (1277)[Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, trang 39]. Mặt khác, cũng không phải vì một số điều giải đoán STV  chính xác với thực tế mà chúng ta quá sùng bái STV đến mức mê tín. Từ đó dễ sinh ra những tâm lý lo âu, sợ hãi hoặc vui sướng, lạc quan hão huyền. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đến hạnh phúc gia đình và quan hệ  bà con, bạn bè trong xã hội.

        Trải qua thực tế nhiều năm khảo sát, nghiên cứu vấn đề giải đoán STV, chúng tôi xin mạnh dạn nêu lên mấy ý kiến sau đây:
        * Môn phái Tử vi học, theo chúng tôi nghĩ là nó có tính khoa học. Bởi vì nó dựa theo phương pháp luận là thuyết âm dương ngũ hành phương Đông - Thuyết này đã được nhiều Hội đồng khoa học của các nước thừa nhận và đã ứng dụng vào y dược học, châm cứu, luyện tập dưỡng sinh, trong lịch pháp, trong thời vụ nông nghiệp v.v... có hiệu quả.
        * Cách luận giải STV có vẻ thâm thúy nhưng chưa tạo được những mạch tư duy lôgích giữa những diễn biến của các vấn đề khi luận giải. Do vậy, có nhiều trường hợp phát sinh mâu thuẫn thì không giải quyết được. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì ngày xưa những thầy Tử vi học viết sách luận giải theo chủ quan suy đoán  của mình. Lúc đó chưa đủ các điều kiện về phương pháp toán học như bây giờ để rà xét lại những kết quả giải đoán mà hoàn chỉnh và tối ưu hóa dần.
        * Ngày nay, chúng ta có thuận lợi về các phương tiện hiện đại thì có thể đi sâu để tìm ra được bản chất của vấn đề.

        Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian không xa nữa, những ai đã quan tâm đến vấn đề này thì cùng nhau hợp lực nghiên cứu để có thể đi đến thống nhất được ý kiến về giải đoán STV là khoa học hay là mê tín. Hiện nay thì tôi vẫn cho rằng giải đoán STV là còn bí ẩn khó hiểu và chỉ mang màu sắc khoa học mà thôi.

                                                                                          N.H.T
       


Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

                                 Chuyện vui
               CÔ DÀO TẬP PHI NGỰA ĐỂ GIẢM BÉO
                                   ==00==

Ở Hà Nội cũng như nhiều nơi khác có nhiều cô béo phì. Các cô trẻ chưa chồng thì rất lo cho cơ thể mình phát triển tự do ngoài ý muốn làm ảnh hưởng đến chuyện lập gia đình. Do đó, họ đã chịu khó tập luyện, kiêng khem ăn uống hoặc dùng thuốc để giảm cân. Có nàng đã mạnh dạn đến “mỹ viện” giải phẫu cắt bỏ từng phần thịt mỡ dư thừa để cho thân hình gọn nhẹ hơn. Các nàng béo phì cứ đồn nhau tìm cách giảm béo. Cô Đào cũng muốn như vậy, nhưng cô thuộc loại béo đều đặn các bộ phận và mặt mũi lại xinh xắn dễ thương nên cô không ưa đi mỹ viện, cũng không thích dùng thuốc, hoặc tập máy để giảm béo. Cô đào chọn cách tập sinh động và phóng khoáng hơn. Đó là đi tập cưỡi ngựa, phi ngựa để giảm béo.
Thế là cô đến địa điểm dịch vụ tập ngựa để đăng kí làm thủ tục tập luyện. Cô chọn một con ngựa đực còn non và có vẻ hiền lành, dễ bảo để tập. Có người hướng dẫn cho cô tập từng động tác. Cô Đào vui vẻ tập trèo lên, nhảy xuống ngựa nhiều lần cho quen rồi phi ngựa chạy quanh bãi tập. Cô cảm thấy việc tập này rất hứng thú, sinh động. Cô cho rằng kiểu tập ngựa này thật tuyệt vời. Cô hy vọng sẽ giảm béo thân hình rõ rệt.
Sau một tuần tập ngựa theo hợp đồng, cô Đào đến phòng dịch vụ để xác minh kết quả. Cô hồi hộp chờ xem thông báo kết quả trên bảng điện tử.
Sau khi cân đo lại trọng lượng cô và con ngựa thì thấy rằng:trọng lượng của cô không thay đổi gì mấy mà trọng lượng con ngựa thì giảm đi mấy cân.
Thấy thế mọi người ngạc nhiên cười vui lên và nói với nhau:
“Thật là buồn cười! Chắc là con ngựa đực non đó vất vả quá sức, vì phải để cô Đào nhảy lên, tụt xuống, phi đi, phi lại nhiều lần rất vất vả mệt nhọc”.
Còn cô Đào thì cảm thấy rất hứng thú mà không mệt mỏi chút nào. Có lẽ do vậy mà trọng lượng của cô không hao hụt gì cả. Cô vẫn chưa làm giảm được gì cái độ béo của cô ta. Tuy thế, cô Đào vẫn không thấy buồn. Cô nàng đành cười vui tự nhiên theo mọi người rồi chào tạm biệt ra về.

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

               NỤ CƯỜI E ẤP NIỀM VUI  
                             ==00==
Niềm vui mới đến với em,
Nụ cười thầm kín bên thềm mái hiên.
Trong lòng xao xuyến liên miên,
Chắc em rạo rực nỗi niềm yêu thương.
Mấy năm đèn sách học đường,
Giờ đây sắp được ra trường Cử nhân.
Như đang suy nghĩ xa gần,
Nơi nào sẽ được công danh vững bền?...
Con đường sự nghiệp, tình duyên…
Cái đẹp, cái nết gắn liền với em.
Đời em sẽ được vui thêm,
Nhờ sự khiêm tốn, dịu hiền dễ thương.
Tình đời ưu ái sắc hương,
Yên tâm số phận trên đường lập thân.
Chúc em hạng phúc đến gần,
Đời sống ổn định, tinh thần yên vui.
                 ==@==
        Nguyễn Hồng Trân(cựu GV. ĐHKH-Huế)

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2014

BÀI CA “TIẾN VỀ HÀ NỘI”
VẪN CÒN VANG DỘI TRONG TÔI
==00==
Bài ca” TIẾN VỀ HÀ NỘI” của nhạc sĩ Văn Cao là một trong những bài ca tôi rất thích hát. Khúc nhạc và lời ca sôi nổi với khí thế hào hùng của đoàn quân tiến về Giải phóng Thủ đô vào ngày 10 tháng 10 năm 1954.
Chúng tôi từ thuở ấy, ở lứa tuổi thanh thiếu niên say sưa ca hát nhiệt tình bài này trong các buổi sinh hoạt tập thể cũng như cứ hát ca  một mình khi hứng thú. Bài hát đã lan truyền đi khắp nơi mà nhiều đã thuộc lòng và hát say sưa. Chúng tôi rất thán phục sự tiên đoán tài tình của nhạc sĩ Văn Cao đã tưởng tượng ra cái quang cảnh hùng tráng của đoàn quân ta hiên ngang trở về tiếp quản Thủ đô. Bài “Tiến về Hà Nội” này NS Văn Cao đã sáng tác từ cuối năm 1949. Và không ngờ 5 năm sau đó(1954) đã trở thành sự thật. Bài ca lại được cất lên một cách tưng bừng, sôi nổi, vang dội khắp cả Thủ đô trong ngày 10-10-1954.
“Trùng trùng say trong câu hát,
Lớp lớp đoàn quân tiến về,
Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng
Cờ ngày nào tung bay trên phố.
Trùng trùng quân đi như sóng,
Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời.
Chúng ta đem vinh quang, sức dân tộc trở về
Cả cuộc đời tươi vui về dây…
Năm Cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón chào nở năm cách đào
Hà Nội bừng tiến quân ca…
….
Sự thực đoàn quân ta chỉ tiến vào tiếp quản Thủ đô theo hai Cửa Ô mà thôi. Đó là vào Ô Chợ Dừa đến tập trung tại sân bay Bạch Mai và vào Ô Quang Chưởng sang Cửa Bắc. Đặc biệt nhất là cuộc diễu hành lực lượng quân đội ta vào sáng ngày 10-10-1954. Đoàn xe cơ giới quân đội dẫn đầu do Chủ tịch Ủy ban tiếp quản Thủ đô -Vương Thừa Vũ (Đại đoàn trưởng Đại đoàn 308) và Phó chủ tịch: BS. Trần Duy Hưng đứng trên xe mui trần vẫy tay tươi cười chào đón nhân dân Hà Nội ra dọc đường vẫy cờ hoa chào mừng quân ta tiến về giải phóng Thủ đô. Tiếp theo là các đoàn quân của Đại đoàn 308 lần lượt đi qua ngã tư Vọng, đến ngã tư Trung Hiền, rẽ lên đường Bạch Mai, qua Phố Huế, tới Hàng Bài, lên Đinh Tiên Hoàng dọc bờ Hồ Gươm đến Hàng Ngang, sang Hàng Đào,qua chợ Đồng Xuân, lên Hàng Giấy, qua vườn hoa Hàng Đậu rồi đến Cửa Bắc vào Hoàng Thành Hà Nội.
Trong ngày hôm đó nhân dân Hà Nội tưng bừng, rộn ràng với bao niềm vui sướng được đón mừng đoàn quân ta chiến thắng ở Điện Biên Phủ và trở về tiếp quản Thủ đô. Cả ngày hôm đó cả thành phố sôi động như ngày hội lớn. Cờ hoa rợp đường, ca nhạc vang lừng khắp cả phố phường với những sắc màu và âm thanh nồng thắm!...
Ôi Hà nội thân thương nay đã được hoàn toàn giải phóng khỏi chế độ thực dân Pháp! Quân và dân Hà Nội vô cùng tự hào với niềm tin vào thực tại và tương lai phát triển của đất nước Việt Nam!...
60 năm đã trôi qua, Hà nội giờ đây đã thay da, đổi thịt thắm hồng với vóc dạng lớn lao ngày càng khỏe mạnh và xứng đáng là một Thủ đô của đất nước Việt Nam hòa bình thống nhất.
                                            ***
                      Hà Nội ngày 9 tháng 10 năm 2014
Nguyễn Hồng Trân (cựu GV trường Đại học Khoa học Huế)

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

                           TÔI ĐÃ BIẾT GÌ VỀ KHỔNG TỬ…
                                                      ==00==
           (Nguyễn Hồng Trân (cựu GV Đại học Khoa học –Huế)
Khổng Tử là một nhà hiền triết mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và kính trọng. Tại Hà Nội, có tượng thờ Khổng Tử trong Văn Miếu Quốc tử giám. Nhiều nhà thông thái, tài danh khắp nơi đã vinh danh Khổng Tử là”NGƯỜI THẦY TIÊU BIỂU CỦA MUÔN ĐỜI”.
1.Lai lịch và cuộc đời
*Ông tổ ba đời của Khổng Tử vốn gốc người nước Tống (Hà Nam), dời sang nước Lỗ (Sơn Đông). Thân phụ của Khổng Tử tên là Thúc Lương Ngột, làm quan võ, lấy bà vợ trước sinh được 9 người con gái. Bà vợ lẽ sinh được một người con trai có tật ở chân, đặt tên là Mạnh Bì. Khi đã về già(70 tuổi), ông Thúc Lương Ngột mới lấy bà Nhan Thị và sinh ra Khổng Tử, vào mùa đông, tháng 10 năm Canh Tuất, năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu, tức năm 551 trước Công nguyên Tây Lịch. Chuyện kể rằng bà Nhan Thị có lên núi Ni Khâu để cầu tự, vì thế khi sinh ra, Khổng Tử được đặt tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Có sách lại chép rằng Khổng Tử có tên là Khâu vì trán cao và gồ lên như cái gò, vì khâu theo ý nghĩa chữ Trung Hoa là cái gò.
  
Khi Khổng Tử lên 3 tuổi, thân phụ mất. Sách Sử không nói rõ về tuổi trẻ của Khổng Tử mà chỉ ghi rằng phu tử hay cùng các bạn nhỏ tuổi bày đồ cúng tế, một điều tỏ rõ bản tính quý trọng các điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, Khổng Tử lập gia đình và sau đó nhậm chức Ủy Lại với công việc là cai quản việc đong thóc ở kho, sau lại làm “Tu chức lại” coi việc nuôi bò, dê, để dùng vào việc cúng tế. Vào lúc này, Khổng Phu Tử đã nổi tiếng là một người tài giỏi vì vậy một vị quan nước Lỗ tên là Trọng Tôn Cồ đã cho hai người con theo học là Hà Kỵ và Nam Cung Quát.

Khổng Tử nghiên cứu về Nho Thuật nên rất chú ý đến các lễ nghi và phép tắc của các bậc đế vương đời trước và muốn tìm hiểu các bản văn, tài liệu, hình tượng liên hệ, thời đó đang được lưu trữ tại Lạc Dương là kinh đô của nhà Chu. Năm 28 hay 29 tuổi, Khổng Tử muốn đi Lạc Dương nhưng vì đường xa, lộ phí quá cao nên đã không thể đi được. Lúc bấy giờ người học trò cũ là Nam Cung Quát liền tâu với Lỗ Hầu và nhà vua đã cho Khổng Tử một cỗ xe hai con ngựa và vài người hầu hạ để ra đi.

Thời đó, người phụ trách tòa nhà lưu trữ các văn thư cổ ghi chép các biến cố từ thế kỷ thứ 23 trước Tây Lịch trở về sau là Lão Tử. Các văn kiện của thời đại đó được khắc bằng chữ cổ lên trên ngói, tre hay mu rùa. Lão Tử đã giúp Khổng Tử xử dụng các văn khố, sao chép tài liệu để về sau này dùng làm căn bản cho việc san định sách. Khổng Tử cũng học về “Lễ" với Lão Tử và về “Nhạc" với Trành Hoằng.
Năm Khổng Tử 51 tuổi, vua nước Lỗ mời ông làm quan Trung Đô Tể tức là vị quan quản trị kinh thành rồi thăng lên cấp Đại Tư Khấu (như Bộ Trưởng Tư Pháp ngày nay). Trong 4 năm đảm nhiệm chức vụ này, Khổng Tử đã đặt ra các phép tắc, đề ra việc cứu giúp các người nghèo khó, quy định việc chôn cất người chết... Nhờ luật lệ phân minh, mọi người dân được dạy bảo các điều lễ nghĩa, trai gái theo lễ giáo, kẻ gian phi không có.

Sau đó, vua nước Lỗ lại cất nhắc Khổng Tử lên chức Nhiếp Tướng Sự, được quyền bàn việc nước. Chuyện còn kể rằng khi cầm quyền, Khổng Tử đã cho giết kẻ gian thần là Nhiếp Chính Mão và giúp nước Lỗ trở thành một miền đất thanh bình, thịnh trị.

Vua nước Tề bên cạnh bèn tìm cách hãm hại nước Lỗ bằng cách đưa qua tặng vua Lỗ 80 gái đẹp và 30 ngựa tốt, khiến cho vua Lỗ đam mê. Vì thế Khổng Tử đã từ chức, rồi rời qua nước Vệ cùng một số môn đệ trong đó có Tử Lộ và Nhan Hồi là người học trò được ưa thích. Sau khi ở nước Vệ 10 tháng mà không được vua nước này trọng dụng, Khổng Tử lại đi qua nước Trần và trên đường đi tại đất Khuông, ông bị nhầm lẫn là Dương Hổ, một tên tàn bạo, nên bị quân lính vây hãm. Các môn đệ định xông ra chống cự nhưng Khổng Tử không cho phép và bảo thầy Tử Lộ đem đàn ra gẩy và chính mình hát theo, nhờ đó mới chứng tỏ được sự thực. Rồi trong thời gian ở nước Tống, Khổng Tử suýt bị ám hại bởi quan Tư Mã tên là Hoàn Khôi.

Sở dĩ Khổng Tử đi hết nước này qua nước kia vì chỉ muốn đem cái sở học của mình về trị dân để thuyết phục các bậc vua chúa nhưng vào thời kỳ loạn lạc đó, không bậc vương giả nào chú ý đến các điều lễ nghĩa của Khổng Tử. Có lẽ trong thời gian đi chu du thiên hạ này, trường phái Khổng Học đã được củng cố và số môn đệ theo học cũng gia tăng rất nhiều. Tính ra từ khi rời nước Lỗ, Khổng Tử đã đi qua tất cả 14 nước và trở về quê hương vào tuổi 68, có lẽ vào năm 484 trước Tây Lịch. 
Không có văn bản nào ghi lại các năm cuối đời của Khổng Tử song chắc chắn ông đã dùng quãng thời gian cuối cùng này để dạy học trò, đọc lại tất cả các tài liệu thu thập được trong các chuyến đi và biên soạn các tác phẩm. Những năm cuối cùng cũng là giai đoạn bất hạnh đối với Khổng Tử vì người con trai độc nhất của ông qua đời, rồi tới lượt Nhan Hồi là môn đệ yêu quý. Năm 480, Tử Lộ cũng chết vì trận mạc. Khổng Tử mất vào năm 497, thọ 72 tuổi, mộ chôn tại Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ thuộc tỉnh Sơn Đông hai dậm. Các môn đệ rất thương tiếc vị Thầy nên họ đã làm nhà bên mộ và để tang trong nhiều năm.

2. Các sách của Khổng Tử.

Khổng Tử được coi là một trong các nhà biên soạn một số sách cổ quan trọng nhất của Trung Hoa. Ông đã xếp đặt lại các văn thơ cổ trong cuốn Kinh Thi (the Book of Odes). Đây là bộ sách chép các bài ca, bài dao từ thời thượng cổ tới đời vua Bình Vương nhà Chu.

Bộ Kinh Thư (the Book of Documents) của Khổng Tử là một bộ sử rất có giá trị, đã ghi chép các lời vua tôi khuyên bảo nhau, từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu. Bộ Kinh Dịch (the Book of Changes) là bộ sách lý học, giải thích quan niệm của người Trung Hoa cổ xưa về cách biến hóa của trời đất, trong đó có cả cách bói toán để đoán trước điều lành dữ.

Khổng Tử đã soạn lại sách này nhưng giảng rõ thêm về phần đạo lý khiến cho sau này, Kinh Dịch là một bộ sách trọng yếu của Nho Giáo.

Bộ sách thứ tư của Khổng Tử là Kinh Lễ (the Records of). Đây là bộ sách ghi chép các lễ nghi để duy trì các tình cảm tốt, các phép tắc cư xử trong xã hội. Kinh Nhạc (the Book of Music) là bộ sách thứ năm, đã bị thiệt hại nhiều nhất do việc nhà Tần đốt sách.

Bộ sách quan trọng nhất và do chính Khổng Tử soạn ra là Kinh Xuân Thu (the Spring and Autumn Annals). Khổng Tử đã dùng lối viết sử để chép các chuyện về nước Lỗ, với đầy đủ niên biểu của 12 vị vua từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công, bắt đầu từ năm 722 tới năm 479 trước Tây Lịch. Đây là một bộ sách hàm chứa các triết lý về nền chính trị của nước Trung Hoa thời cổ.

Sau khi Khổng Tử đã qua đời, các môn đệ của ông đã biên soạn cuốn Luận Ngữ (the Analects = the Edited Conversations) ghi chép các đàm thoại của Khổng Tử với các vua quan và các môn đệ. Cuốn sách này nhấn mạnh tới nền triết học chính trị (political philosophy) của Khổng Tử.

Khổng Tử đã quan tâm tới sự vô đạo đức và thiếu đạo đức của các chính quyền thời đó và ông đã cố gắng tìm kiếm một vị vua chúa chấp nhận quan điểm của ông là phải dùng các tiêu chuẩn đạo đức làm nguyên tắc trong việc cai trị dân chúng.

Khổng Tử cho rằng việc chính trị trở nên tốt hay xấu là do nhà cai trị và người này phải mang lại hạnh phúc và an lạc cho người dân, muốn thế, bậc vua chuá phải làm gương tốt để ảnh hưởng đến hành động của những người khác.

Khổng Tử bác bỏ cách dùng luật pháp nghiêm ngặt và tin rằng dùng các tập quán về luân lý và sự hợp lẽ (compliance) là cách hay nhất để duy trì trật tự trong xã hội.

Tôn chỉ này của Khổng Tử được nói ra ở Kinh Xuân Thu với các ý nghĩa “chính danh và định phận", và một nước được thịnh trị vì nơi đó “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Khi danh phận đã được định rõ thì mọi người đều có địa vị chính đáng của mình, trên ra trên, dưới ra dưới, tất cả đều có trật tự phân minh.

Đây là chủ thuyết “Chính Danh” của Khổng Tử (the Rectification of Names). Khổng Tử coi những năm đầu của nhà Chu là có hình thức chính quyền tốt đẹp nhất.

Khổng Tử tự coi mình chỉ là người truyền lại các ý tưởng của Cổ Nhân đã có từ trước, tuy nhiên ông đã là nhà tư tưởng Trung Hoa đầu tiên đề cập tới các quan niệm căn bản không những của nền Khổng Học mà của nền Triết Học Trung Hoa. Năm điều căn bản này là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Khổng Tử tin rằng người “quân tử” không nhất thiết phải là một nhà quý tộc và người đó phải làm gương tốt về đạo đức cho các người khác noi theo.

Khổng Phu Tử quả là một nhà Nhân Bản, một trong các bậc Thầy vĩ đại của lịch sử Trung Hoa. Ảnh hưởng của ông đối với các môn đệ đương thời rất sâu rộng và những người này đã cắt nghĩa lý thuyết của Khổng Tử khiến cho tới đời nhà Tiền Hán (từ năm 206 trước Tây Lịch tới năm 8 sau TL), lý thuyết Khổng Giáo đã trở nên ý thức hệ của triều đại đó.

Quan niệm về bản tính Thiện của con người cùng sự quan trọng của đức tính Nhân và lòng Nhân Đạo trong chính trị và trong đời sống hàng ngày đã được sau này Mạnh Tử (Mencius) khai triển và được Tuân Tử đưa vào thực tế.

Do các điều giảng dạy đạo làm người rất thực tế và đầy lòng nhân ái. Đạo Khổng vẫn tiếp tục được coi là một triết lý sống rất mạnh và phổ thông tại Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Tại Văn Miếu Quốc tử giám ở Hà Nội đã có tượng thờ đức Khổng Tử cũng vì lý do là một nền giáo dục phải lấy đạo đức làm trọng mới tồn tại lâu dài và có ý nghĩa lớn trong xã hội.

 3.Một số danh ngôn của Khổng Tử
1.Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ!
(Học đi với hành, không chỉ nói cho qua chuyện)
2. Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.
( Trong việc trị quốc, phải thận trọng không hứa ẩu, biết đãi người hiền, phải được lòng dân).
3. Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. 
(Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết)
4. Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. 
(Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc)
5. Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị vị chi “văn ”dã. 
(Thông minh và hiếu học thì không thẹn hỏi kẻ dưới mình, Vậy mới thật gọi là có trình độ).
6. Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ. 
 (Nghĩ việc xưa để hiểu việc nay,là điều đáng làm thầy người khác).
7.Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. 
(Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc).
8. Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị vị chi “văn ”dã. 
(Thông minh và hiếu học thì không thẹn hỏi kẻ dưới mình, Vậy mới thật gọi là có học).
9. Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi. 
(Có thể làm cho dân theo con đường của ta, không thể làm cho họ biết hết gì).
10.Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính . 
(Không ở vị trí thích hợp, không nên toan tính chuyện).
11. Hậu sinh khả uý, yên tri lai giả chi bất như kim dã.  
( Lớp sau sẽ giỏi, biết đâu sau này không như ngày nay).
12. Tri giả bất hoặc; nhân giả bất ưu; dũng giả bất cụ.
(Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi).
13. Khắc kỷ phúc lễ, vi nhân .
(Cạnh tranh bất chính cho mình là lòng ích kỷ).
14. Kỷ sở bất dục, vật thi vu (ư) nhân .
(Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác).
15. Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh nhi bất tùng.
(Bản thân làm điều phải, không ra lệnh người ta cũng nghe; không đúng thì có ra lệnh người ta cũng không nghe).
16. Vô dục tốc; vô kiến tiểu lơi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành .
(Không làm nhanh, không ham lợi nhỏ. Làm nhanh dễ hư chuyện; thấy lợi nhỏ mà ham thì không thể làm nên chuyện lớn).
17. Hà dĩ báo đức chính dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức .
(Hãy lấy lẽ phải để đáp trả lại sự oán thù, dùng nhân đức để đáp lại người hiền).
18. Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu.
(Người không biết nhận thức sâu xa, ắt có ngày sẽ gặp phiền phức-âu lo).
19. Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn , tắc loạn đại mưu.
(Lời giả dối làm rồi loạn tâm thiện. Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hư chuyện đại sự).
20. Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ!
(Biết lỗi mà không sửa, đó chính là lỗi!)
21. Tính tương cận dã, tập tương viễn dã.
(Tương đương câu tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”).
22. Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chư tiểu nhân.
(Những kẻ ngoài mặt oai lệ mà trong lòng nhu nhược, thì ta coi là hạng tiểu nhân).
23. Đức bất cô, tất hữu lân .
(Người có đức khôngcô đơn, tất có bạn gần)
24. Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả.
(Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học. (Gs. Minh Chi dịch).
25. Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính
(Không ở vị trí thích hợp, không nên toan tính chuyện).
                                                                    =NHT=