Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

           NHỚ NGÀY PHẬT ĐẢN HẰNG NĂM
                                         ==***==

Nhớ đến ngày rằm tháng tư
Đại lễ Phật đản dân cư kính mừng
       Đèn hoa chào đón tưng bừng
Chùa chiền rạng rỡ không ngừng tiếng chuông
       Ngân vang kinh Phật trào tuôn
Tay lần tràng hạt tiếp nguồn từ bi
       Nam Mô Đà Phật A Di!
Đem về phúc ấm thiện tri cho đời.
           =00=
                   Nguyễn Hồng Trân

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015



      ĐẾN THAM QUAN THÀNH AN DƯƠNG VƯƠNG
                    Nguyễn Hồng Trân
Ngày Chủ nhật 17-5 vừa rồi, vợ chồng chúng tôi (Nhà giáo Nguyễn Hồng Trân và nữ bác sĩ Thái Lê Phương) đến thăm thành trì An Dương Vương ở Cổ Loa, Đông Anh. Vùng di tích lịch sử lâu đời này rất đáng quan tâm ghi nhớ, nhưng tiếc thay đến nay vẫn chưa được tôn tạo cho đàng hoàng xứng đáng với một di tích Lịch sử -Văn hóa của Quốc gia.
Đây là một di tích xa xưa mà chắc nhiều người Việt chúng ta đã từng nghe nói thành vua An Dương Vương. Đó là vùng thành trì xoắn ốc độc đáo trên vùng đồi Cổ Loa.
Vua Hùng 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn (tức Tản Viên). Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán cảm kích dựng hai cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng. Thục Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.
       Khu vực này, ngày nay vào các ngày nghỉ, đều có liên tục  du khách đến tham quan, nhưng cũng không tấp nập như các di tích khác. Vì di tích lịch sử này ở một địa thế còn chật hẹp và cảnh quan không có gì hấp dẫn nên khó lôi cuốn người tham quan du lịch, mặc dù phương tiện đi lại rất thuận tiện và không xa với trung tâm Thủ đô Hà Nội.

Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

                          BƯỚC CHÂN TRƯỜNG SƠN
                          (Hồi ức của nữ BS. Thái Lê Phương)
                          Nguyễn Hồng Trân đăng tải giới thiệu
                                                   ==00==
Ngày tiễn tôi và các bạn lên đường vào chiến trường miền Nam (lúc đó gọi là đi B), một số bạn đã nói: “Lê Phương ơi, dừng lưng đèo để thở, chứ không phải để nghe suối hát đâu nhé!”. Bởi ngày đó, chúng tôi còn trẻ mới tốt nghiệp Đại học Y khoa ra trường nên lòng ai cũng đầy nhiệt huyết, ai cũng muốn được vào Nam, được cống hiến phần sức lực nhỏ bé của mình cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước. Vào chiến trường Trị -Thiên khi đó, nhóm chúng tôi gồm BS Hoàng Hữu Hai, nữ BS Lê Thanh Thái, BS Nguyễn Thị Lợi, Tôi-BS.Thái Lê Phương và em Hồ Thị Kính-Y sĩ người dân tộc Pa- cô.
Chúng tôi ra đi với đầy lòng nhiệt tình sôi nổi, háo hức và pha chút lãng mạn. Và rồi con đường phía trước với bao chông gai thử thách... Rời trường huấn luyện 105 ở Hòa Bình (Ngày ấy chúng tôi nói vui là trường Biệt kích Việt Cộng), đoàn đi B chúng tôi thẳng tiến về Nam. Tăng- bo qua cầu Hàm Rồng dưới làn bom đạn, vượt Quảng Bình đất lửa; qua phà Long Đại hiểm nguy, rồi từ đây bắt đầu con đường Trường Sơn. Ngày hành quân, đến tối, chúng tôi được nghỉ ở một trạm giao liên giữa rừng. Ở đó chúng tôi chặt cây, đóng cọc, dựng tăng, mắc võng, tranh thủ lo tắm giặt, nấu ăn, rồi chuẩn bị cơm nắm và cả bi đông nước cho ngày mai lại lên đường.
Cứ vượt qua một ngày, cái ba lô trên vai càng trĩu nặng, tôi lại phải xem cái gì là không tối cần thiết để bỏ bớt ra. Các trang bìa dày của sách chuyên môn cũng xé bỏ bớt, thậm chí còn cắt bỏ đi những chiếc cúc áo, chỉ còn buộc chỉ cho nhẹ. Cứ vậy chúng tôi vượt qua đỉnh Ta -Băng, Xiê -Băng -Hiêng, sông Sê Bôn, đèo 1001, Cổng Trời.v.v… Có lúc tôi thấy mình đang đi trên mây, gió thổi ràn rạt, bạt cả chiếc mũ tai bèo… tôi lại nhớ đến hai câu thơ: “Chân đạp mây may, tóc vờn gió núi” của nhà thơ Lưu Trùng Dương. Dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, những bước chân nhỏ bé của chúng tôi đã gặp bao gian nan nhưng vẫn luôn sẵn sàng tiến bước. Chúng tôi đi dưới những tán rừng già. Cùng với chúng tôi đi trên con đường đó, là bộ đội, thanh niên xung phong, cán bộ, giáo viên và nhiều nhiều người trên con đường vào chiến trường…
Là con đường bí mật như vậy, nhưng máy bay OV-10 của địch thì cứ bay rì rầm trên các tán cây rừng để thám thính, nếu phát hiện ra chỗ nào có dấu hiệu nghi ngờ là chúng liền oanh tạc và trút bom xuống ngay. Không khí rừng núi trong thời chiến tranh là vô cùng căng thẳng. Cứ ngày hành quân, đêm đến yên tĩnh, thỉnh thoảng tôi lại viết thư về nhà cho ba má tôi và những người thân. Trên thư đều có đánh số thứ tự để ở nhà biết mà đoán là con mình đã đến đâu, vẫn an toàn. Những bức thư của chúng tôi được theo các giao liên mà đưa ra Bắc. Cũng có trường hợp khi ở nhà nhận được thư thì người thân đã hy sinh trước đó rồi. Trên đường đi ngoài chuyện phải lo tránh bom đạn kẻ thù, còn phải lo chống loài sên vắt, muỗi rừng,… thì còn một thứ cũng vô cùng đáng sợ, đó là bệnh sốt rét.
Có một hôm, chúng tôi đang đi, thì gặp một cơn mưa rừng ào ào đổ xuống, tôi lên cơn sốt rét. Nhiệt độ 39 độ rồi trên 39 độ, nhưng vẫn phải gắng đi không thể dừng lại. Đến khi trước mặt xuất hiện con thác A-Cho cuồn cuộn chảy. Thật khó lòng vượt qua!. Thế rồi giao liên và đồng đội đã đưa tôi vượt qua suối, lại tiếp tục đi… người tôi hầm hập sốt … Đến lúc chóng mặt, chân không còn vững nữa, tôi trượt chân lăn xuống vực. Một vực quá sâu giữa rừng già. Lúc đó, giao liên bất lực, nghĩ rằng thế là hết, chắc sẽ nói lời vĩnh biệt tôi. Nhưng thật là may cho tôi, cái quai ba lô của tôi đã mắc vào gốc cây cụt và tôi được giữ lại ở đoạn dốc mà không lăn thẳng xuống vực sâu. Lúc đó tôi nghĩ rằng mình được quý nhân phù trợ. Đồng đội và các anh giao liên đã xuống kéo đưa tôi lên. Bác sĩ Lợi đã kịp thời lấy kéo cắt một ít tóc tại chỗ da đầu bị rách và băng bó vết thương.
Chúng tôi lại tiếp tục đi về phía trước. Có những lúc vượt qua những chặng đường trọng điểm bị địch đánh phá ác liệt, ở đó những cánh rừng đã bị hủy diệt, trơ trụi cành cây tán lá. Những đoạn đường như thế, tôi cùng mọi người phải chạy vượt qua nhanh, trong lúc hai chân đã tê dại. Đến một đoạn đường an toàn hơn, được nghỉ lấy sức, tôi và BS Lợi ngồi dưới một bụi cây chưa đủ che kín người, Lợi nói với tôi: “Nếu tau mà chết, đến ngày giải phóng mi nhớ về thăm mẹ và kể với mẹ về đoạn đường mà hai đứa đã đi”. Tôi “ừ”. Nhưng nghĩ lại rằng, trong những ngày chiến tranh gian khổ này thì biết ai còn, ai mất, mà vào thời khắc cả nước lên đường, cả nước cùng đánh giặc thì mạng người mất còn cũng là chuyện thường tình. Và rồi chúng tôi lại vui vẻ lên đường, vừa đi, vừa hát… Ngày đó chúng tôi thường hát những bài ca về Trường Sơn, bài “Việt Nam trên đường chúng ta đi”, bài “Hành quân xa”, những bài ca quen thuộc, hùng tráng ấy đã thúc dục chúng tôi vững bước lên đường. BS.Lợi có giọng hát hay và chúng tôi thích nhất nhưng câu như: “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi…”. Nghe nó thúc dục, đầy khí thế để đi về phía trước, như chúng tôi đang đi để góp những bước chân nhỏ bé của mình vào đoàn người trùng trùng, điệp điệp… trên dãy Trường Sơn cho đến ngày toàn toàn thắng.
40 năm đã trôi qua, những ngày gian khổ hào hùng của đất nước một thời chưa xa đã làm nên Đại thắng mùa xuân 1975 vĩ đại, đã đem lại một đất nước hòa bình thống nhất hôm nay. Tôi và một số bạn bè của tôi giờ đây được sống với gia đình, con cháu trong không khí hòa bình, hạnh phúc, nhưng còn một số bạn bè tôi như Võ Thị Hương, Huỳnh Yến, Hoàng Mai v.v… và bao nhiêu người nữa đã không trở về.... Họ mãi mãi nằm lại ở tuổi thanh xuân!...
Hằng năm, vào dịp này, trong tôi luôn trào dâng một tình cảm hạnh phúc, thương nhớ… Và đặc biệt là nhớ về những người đã cùng tôi đi qua năm tháng đó, những người còn sống và những người đã mất… Xin được xẻ chia và tưởng nhớ. Bởi những con đường Trường Sơn năm xưa đã in dấu những bước chân của chúng tôi lên đường chống giặc Mỹ  xâm lược.