TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ “LẤY DÂN LÀM GỐC”
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ xuất phát từ tình cảm thương dân, yêu nước, ghét ngoại xâm và bọn phản bội. Bác đã đi khắp đó đây và đã nhìn xa thấy rộng được nhiều vấn đề thực tế về những hoạt động thành công và thất bại ở nhiều nước trên thế giới để rút ra kinh nghiệm, bài học quý giá vận dụng vào đất nước mình. Trong đó có bài học phải “lấy dân làm gốc”.
Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Người cũng là xuất phát điểm của mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, đó cũng là cơ sở mà cán bộ, đảng viên, nhất là các vị chức trách lãnh đạo xã hội cần phải thấm nhuần để rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của mình.
Tìm hiểu quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy có những điểm tương tự với quan điểm trước đây của Nho gia. Nhưng so với tư tưởng của Nho gia thì quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có những điểm giống nhau và khác về căn bản.
Những quan điểm giống nhau là:
1-Là thái độ coi trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân. Về điều này, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là: “Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi. Hoặc: “Đường lối được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc) (Theo sách Đại học, Nxb Khoa học Xã hội, 1991 tr.119)
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương tự như Nho gia, khi Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế gian không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Theo Báo Nhân dân ngày 21-5-1990)
2-Quan tâm đến đời sống của dân. Nho gia yêu cầu các bậc trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối thiểu để họ: “ngẩng lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con” (sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử) (Theo Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử triết học phương Đông tập II Nxb T.p Hồ Chí Minh, 1991 tr.61)
Đây cũng là quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đề ra và thực hiện các chính sách. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, dân rét, dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi.
(Theo sách:Thế hệ trẻ Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, Trung ương Đoàn ấn hành, 1986 tr.32)
3-Phải gần dân, đối xử đúng mức với dân. Kinh Thư viết: “Đối với dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ). Khổng Tử nhắc nhở những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận như điều hành một cuộc tế lễ lớn” (Sử dân như thừa đại lễ).
Tác phong gần gũi nhân dân là nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác hay đi thăm hỏi đồng bào, tìm hiểu đời sống của nhân dân ở nhiều địa phương. Có như thế mới hiểu được thực tế đời sống và nguyện vọng của dân.
Bác luôn giáo dục cán bộ, đảng viên không được có tác phong quan liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân dân.
4-Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đây là một phương châm sống cao thượng của những nhà Nho chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm này trong toàn bộ hoạt động cũng như đời sống của Người. Bác chăm lo cho tất cả mọi người nhưng không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ cho riêng mình. Làm việc gì, sống như thế nào, bao giờ Bác cũng nghĩ đến dân trước hết.
Những điểm khác nhau là:
1-Thái độ đối với người dân, nhất là người lao động chân tay và cách sống gần dân. Không như Nho gia xếp thiên hạ thành hai loại: Thượng trí và hạ ngu. Thượng trí là tầng lớp cầm quyền, trí thức, còn hạ ngu là hàng dân lao động chân tay. Quan điểm Nho gia cho rằng hai loại người này đã an bài trong xã hội (Duy thượng trí hạ ngu bất di). Ngoài ra trong nghề nghiệp họ còn phân biệt nghề sang, nghề hèn và phân biệt đối xử.
Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tôn trọng nhân dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học hỏi nhân dân, học tập kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, Người tôn trọng tất cả mọi người lao động và tất cả các nghề trong xã hội.
Trong Di chúc, Người viết: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi người như người cha, người bác, người anh gần gũi. Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, trang phục của Bác hàng ngày cũng bình dân.
Điều Bác muốn nói là: cán bộ lãnh đạo mà biết sống giản dị, tiết kiệm, trong sạch, biết nghĩ đến dân và vì dân mà sống thì đó là cái phúc của dân.
2-Mục đích “lấy dân làm gốc”.
Mục đích của Bác khác với Nho gia ở chỗ không phải để xoa dịu lòng dân mà giữ gìn địa vị của mình mà quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để giải phóng người dân thoát khỏi tình trạng bị nô lệ về chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên.
Người viết trong di chúc: “Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
3-Sự hiện thực hóa quan điểm “lấy dân làm gốc”.
Quan điểm của Nho gia chỉ có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật, không được giới cầm quyền đương thời thi hành, vì đụng chạm đến quyền lợi của chúng. Đâu có như Khổng Tử mong muốn là “hữu giáo vô loại” (có một nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp).
Ngược lại, quan điểm “lấy dân làm gốc” hay lý tưởng sống vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện bằng chính hoạt động của Người. Người không chỉ nói mà còn làm. Người suốt đời phấn đấu không ngừng cho đời sống chính trị cũng như đời sống kinh tế và văn hóa - giáo dục của nhân dân ta không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Trên đây là một số điểm cơ bản về quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng tôi đã nêu lên trong sự so sánh tương đối với tư tưởng của Nho gia. Từ những suy nghĩ trên đây, chúng tôi mong muốn một điều là: phương thức để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là thi tìm hiểu có tính chất sách vở, hoặc thi kể chuyện về Người, mà chủ yếu là bằng hành động cụ thể của mỗi người.
Đáng tiếc là, hiện nay một bộ phận cán bộ đang làm ngược lại những điều Bác răn dạy về phẩm chất, đạo đức của người cán bộ cách mạng. Họ quan liêu, cửa quyền, không hiểu gì tình hình thực tế của dân để “lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân” như Bác Hồ nói. Họ sống xa hoa, phè phỡn, thậm chí còn có lối sống vương giả bằng những nguồn thu nhập bất chính, trong khi còn nhiều người dân chưa thoát khỏi đói nghèo. Những đức tính như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư – những nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh – đã dần dần xa lạ đối với họ.
Rất mong, qua những đợt vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” như thế này, những hiện tượng tham nhũng, quan cách, sách nhiễu sẽ bị thanh lọc dần, để mỗi người cán bộ, đảng viên được dân quý trọng và tin tưởng. Và như vậy, việc tìm hiểu quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người không chỉ dừng lại trên lý thuyết, diễn đàn, hội thảo… mà phải được các tầng lớp chức trách lãnh đạo xã hội thực hiện có hiệu quả trên mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân. Có như thế mới thực sự hiểu được ý nghĩa sâu sắc của vấn đề lấy dân làm gốc.
==00==
(Nguyễn Hồng Trân-cựu GV trường Đại học KH Huế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét