GẶP MỘT NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
NGÀY
VUA BẢO ĐẠI THOÁI VỊ 30/8/1945
******
Nguyễn Hồng Trân
Nhân dịp kỷ niệm 70 ngày Cách mạng Tháng
Tám và Quốc khánh 2-9 năm nay (2015), tôi tìm đến nhà Việt (ở nhà 125 Đ, ngõ
Hòa Bình 7, phố Minh Khai,Hà Nội) để thăm bác. Năm nay bác đã 95 tuổi, nhưng
bác vẫn còn minh mẫn, tỉnh táo và đi lại bình thường. Tôi rất mừng và nghĩ rằng
bác là một nhân chứng lịch sử tròn 70 năm ngày bác cùng với ông Nguyễn Thế
Lương(Cao Pha) đã tổ chức treo cờ đỏ sao vào lên đỉnh cột cờ Kinh thành Huế
trong ngày vua Bảo Đại thoái vị chiều 30-8-1945.
Mấy năm trước, mỗi lần ra Hà Nội, tôi
đều ghé thăm bác Việt, vì ngày xưa ba tôi làm cai lính Khố vàng canh gác ở Đại
nội Huế và sau ngày kháng chiến chống giặc Pháp, ba tôi cũng đi bộ đội cụ Hồ
nhưng đã mất sớm (1947) nên tôi coi bác như người cha, người chú thân thiết.
Mỗi lần tôi gặp bác Việt, bác chuyện trò
với tôi rất vui vẻ, cởi mở, nhiệt tình về các vấn đề xã hội, đất nước và con
người xưa nay. Càng nghe bác nói chuyện, tôi càng hứng thú, thán phục về tầm
hiểu biết văn hoá, lịch sử của bác cũng khá sâu rộng, uyên
thâm.
Tôi nghĩ rằng, kiến thức của bác Việt có
được như vậy cũng do quá trình học hỏi đã tích luỹ được
trong thực tế trên nửa thế kỷ với sự rèn luyện, chiến đấu kiên cường, anh dũng
qua bao thử thách trong hàng ngũ quân đội nhân dân Việt Nam .
Tôi và bác nói chuyện với nhau được một
lúc thì bác quay sang hỏi tôi:
“Cậu đến thăm mình và có cần việc gì
không?”
Tôi trả lời:
“Cháu đến thăm bác, trước tiên là để
được gặp thăm bác- một người lịch sử mà xưa nay cháu đã từng nghe tiếng về một
sự kiện lịch sử liên quan đến bác. Đó là việc bác đã chỉ huy treo cờ đỏ sao vàng
lên kỳ đài kinh thành Huế trong ngày lễ vua Bảo đại thoái vị. Hồi đó, cháu mới
học xong lớp nhì ở Huế và cháu cũng có mặt cùng mẹ cháu trong buổi lễ đó. Bấy
giờ ba cháu là cai lính khố vàng lo canh gác Đại Nội Huế. Ba cháu có kể lại
rằng, khi cách mạng giành chính quyền ở Huế, vua Bảo Đại ra lệnh cho đội lính
Khố vàng canh gác kỳ đài "không được đụng đến quân đội Việt Minh để yên
cho họ muốn làm gì thì làm thì mọi người mới được an toàn”.
Thế là ngày 21/8/1945, cuộc cách mạng
giành chính quyền thành công đã diễn ra ra ở Huế. Lá cờ của nhà vua bị hạ
xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên Kỳ đài Kinh thành Huế.
Sau đó, đến ngày làm lễ nhà vua thoái vị
thì lá cờ vàng Quẻ ly của nhà vua lại được kéo lên để làm thủ tục lễ thoái vị
cho nhà vua. Khi làm lễ chính thức bàn giao quyền lực cho chính thể mới VNDCCH
thì cờ nhà vua sẽ hạ xuống và cờ đỏ sao vàng sẽ được kéo lên kỳ đài.
Bác Việt nói liền với tôi:
“Thực ra thì vua Bảo đại cũng đã biết
trước tình thế vận nước lúc bấy giờ rồi nên mới để yên cho quân cách mạng tiến
hành yên ổn như vậy. Nếu không thì cũng sinh chuyện đổ máu trong ngày đó thì có
lẽ cũng là ngày giỗ của chúng tôi và giỗ cả nhà vua nữa”.
Tôi hỏi thêm bác Việt:
“Xin bác nói rõ hồi đó bác chỉ huy kéo
cờ như thế nào? Bác có tham gia trực tiếp kéo không?”
Bác Việt trả lời:
“Tôi là người trực tiếp chỉ huy toán
lính ta gồm 5 người trang phục chỉnh tề đứng chào. Tôi chỉ ra lệnh cho số lính dõng địa phương kéo cờ vàng nhà vua xuống và kéo cờ đỏ sao
vàng lên Kỳ đài trước Ngọ Môn Kinh thành Huế và những ngày Cách mạng Tháng Tám
năm 1945. Đó cũng một vinh dự cho tôi trong cuộc đời tham gia cách mạng, làm
lính cụ Hồ”.
Tôi hỏi tiếp bác Việt:
“Bác là một trong những nhân chứng quan
trọng trong giờ phút lịch sử ấy, bác có cảm tưởng như thế nào lúc bấy giờ?”
Bác trả lời:
“Tôi vô cùng xúc động trước sự kiện lịch
sử này. Từ trên cột cờ nhìn xuống, tôi thấy cả một biển người sôi động hô vang:
“Hồ Chí Minh Muôn năm! VNDCCH Muôn năm!”. Tôi cảm thấy mình đang bừng lên không
khí phấn khởi chung của đồng bào Thừa Thiên- Huế chào mừng một chế độ mới dân
chủ, độc lập không còn thực dân, phong kiến nữa. Càng ngẫm nghĩ tôi càng thấy
rằng chính sách của Chính phủ cụ Hồ thật khôn khéo và nhân đạo đã đem lại sự ổn
định niềm tin và cảm tình cho toàn thể dân chúng. Chứ không phải như ngày xưa ở
Pháp và một số nước khác khi lật đổ một chế độ là họ sát hại nhà vua và các
quan lại cận thần không luyến tiếc”.
Nghe như vậy, tôi tiếp lời bác Việt:
“Cũng nhờ chính sách mềm dẻo của chính
quyền cách mạng như thế nên vua Bảo Đại cũng cảm kích và sẵn sàng thoái vị mà
không có một chút gì sợ hãi, oán hận mà nhà vua rất bình
tĩnh. Đều đó đã thể hiện trong bài chiếu thoái vị của nhà vua trước hàng chục
vạn đồng bào trong chiều ngày 30/8/1945, trong đó có đoạn như sau:
“Còn về phần trẫm, sau 20 năm ngai vàng, bệ ngọc, đã
biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một
nước độc lập, chứ trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của trẫm
hay của Hoàng Gia mà lung lạc quốc dân nữa.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Dân chủ
Cộng hoà muôn năm!”
(Trích Tờ
chiếu số hiệu:1871 –GT,ngày 18 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (25 tháng 8 năm 1945)
.
Trước
ngày thoái vị, vua Bảo đại có ban một tờ chiếu cho bà con trong Hoàng tộc và
được công bố vào ngày 25/8/1945, trong đó một câu nói nổi tiếng đầy ý nghĩa mà
chắc nhiều người trong nước ta còn nhớ:
“Trẫm ưng làm dân một nước độc
lập hơn làm vua một nước nô lệ”
Câu đó nằm
trong đoạn sau:
“Cái gia tài quý báu di truyền đã gần 400 năm ấy,
nay trong giây phút trẫm bỏ hết cả. Bà con trong Hoàng tộc ai mới nghe cũng
phải đau lòng ngậm ngùi. Song trẫm biết rằng đó chỉ là một cái cảm tính thoáng
qua trong chốc lát mà thôi chớ bà con ai cũng sẵn tính bình tĩnh, sẵn trí sáng
suốt để xét gần, thấy xa, cho nên sau khi đã chuẩn định lấy ba chữ “Dân vi quý”
làm một khẩu hiệu của chính thể mới, sau khi đã tuyên bố: Để hạnh phúc dân lên
trên ngai vàng. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn
làm vua một nước nô lệ”, nay trẫm nhất định thoái vị để giao vận mệnh
quốc gia lại cho một chính phủ có đủ điều kiện huy động hết thảy lực lượng của
toàn quốc mà giữ vững nền độc lập của nước, hạnh phúc cho dân” (Trích tờ chiếu Số hiệu: 1872 –GT. Ngự tiền
Văn phòng cung lục,25 tháng 8 năm 1945).
Sau ngày Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn tỏ ý tôn trọng cựu hoàng Bảo Đại mà gửi thư vào mời ông Vĩnh Thụy ra làm Cố vấn cho Chính phủ lâm thời tại Hà Nội. Chính
nhờ sự rộng lượng khôn khéo ấy mà có nhiều cựu quan lại nhà Nguyễn lúc bấy giờ
cũng đi theo nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như ông
Thái Văn Toản, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hoè,
v.v…
Nghe tôi nói như thế, bác Việt cũng tỏ
vẽ tán đồng và cười vui. Sau đó bác ấy kể cho tôi về cuộc đời binh lửa của bác
trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Hầu hết các sĩ quân quân đội nhân dân
Việt Nam
ai cũng biết tên tuổi bác.
Đặng Văn Việt nguyên là Trung đoàn
trưởng TĐ 174 (Cao- Bắc- Lạng) đã tham gia chỉ huy hàng trăm trận đánh với quân
giặc và đều thắng lợi. Nên các tướng tá quân Pháp lúc bấy giờ phong cho bác
Việt danh hiệu: “Con hùm xám đường 4”.
Trong cuộc đời quân ngũ của bác Việt,
bác đã từng tham gia các chiến dịch lớn như:
-Nguyên chỉ huy mặt trận đường số 9
-Nguyên chỉ huy mặt trận đường số 7
-Nguyên chỉ huy mặt trận đường số 4
-Nguyên chỉ huy mặt trận đường số 6
Bác Đặng Văn Việt tuy nay tuổi rất cao,
nhưng bác vẫn còn tỉnh táo, chuyện trò rành mạch, vui vẻ thoải mái. Bác nói
cuộc đời của bác tổng kết lại gồm 3 cái có và 7 cái không như sau:
-3 cái có là:
1.Có công với Giang sơn Tổ quốc.
2.Có tình nghĩa với đồng bào, đồng đội.
3.Có kiến thức thực tiễn và lý luận sâu
rộng về quân sự.
-7 cái không” là:
1.Không tham ô, trục lợi,
3.Không quỳ gối, xu nịnh,
4.Không hèn nhát, cầu an,
5.Không hận thù, thành kiến,
6.Không lừa dối, xảo trá,
7.Không háu danh, địa vị.
Sau ngày nghỉ hưu, bác vẫn không ngừng hoạt động công tác xã hội và Hội cựu chiến binh. Bác Việt còn
dành nhiều thời gian sưu tầm tư liệu và kết hợp với kiến thức thực tế trong
lịch sử chiến đấu chống giặc của quân và dân ta để viết nên những trang sử hào
hùng của dân tộc.
Những tác phẩm của bác Việt được nhiều
người đón đọc và hoan nghêng, ngưỡng mộ. Có 2 tác phẩm của bác được giải
thưởng. Đó là các tác phẩm:
-Đường 4
rực lửa- được giải văn hoá nghệ thuật toàn quốc năm 1987.
-Người lính
già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường 4 anh hùng (Hồi ký, được xếp hàng đầu trong các hồi ức thế giới năm 2004 (theo
tin của BBC ).
Đặc biệt cách đây không lâu, có một tác phẩm được
nhiều nhà sử học đánh giá rất cao và được nhiều bạn đọc ca ngợi. Đó là tác
phẩm:
-Người lính
già kể chuyện dân tộc Việt Nam
chống xâm lược và những bài học.
Quyển sách này, bác Việt và các cộng tác
viên đã viết đi viết lại 7,8 lần và đã tiến hành bốn cuộc hội thảo lớn tại Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh. Hàng trăm giáo sư, tiến sĩ, nhiều tướng lĩnh v,v… đã
nhiệt tình ủng hộ và cổ vũ cho công trình này.
Như Thượng tướng, GS, NGND Hoàng Minh
Thảo, nguyên Viện trưởng Học viện Quốc phòng Việt Nam đã ghi trong lời tựa
quyển sách:
“Tôi xin thành thật cảm ơn và hoan
nghênh tác giả Đặng Văn Việt và cộng tác viên của ông đã làm nên công trình quý
giá này, một đóng góp vào kho tàng tư liệu về nghệ thuật quân sự, lịch sử quân
sự, kho tàng văn hoá của nước nhà”.
Cũng như trong nhận xét của GS. Trần Văn
Giàu:
“Sau 21 thế kỷ, lần đầu tiên cuốn “Việt Nam chống xâm lược” “là cuốn quân sự đầu tiên của Việt Nam”
từ cổ đại đến hiện đại được xuất hiện. …Sách tuy không dày lắm nhưng nội dung
bao trùm nhiều lĩnh vực, nên có thể coi như một một Bách khoa thư thu nhỏ”.
Những tác phẩm của bác Việt nói trên là
một tài sản vô giá của người lính cụ Hồ để lại cho thế hệ đi sau với những cái
đánh giá, nhìn nhận rất thực tiễn, khách quan và trí tuệ của một nhà quân sự
dày dặn kinh nghiệm chống quân xâm lược, giải phóng dân tộc và quê hương đất
nước Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập
trường Thanh niên Tiền tuyến Huế (1/7/1945 – 1/7/2015), bác Đặng Văn Việt đã từ
Hà Nội vào Huế dự buổi gặp mặt các vị cựu TNTT tại Bảo tàng Lịch sử Cách mạng
tỉnh Thừa Thiên -Huế. Bác đã thay mặt cho Ban liên lạc học sinh của trường phát
biểu ý kiến rất xúc động. Trong đó có đoạn: “Chúng tôi, những nhân chứng lịch
sử còn sống sót đến hôm nay nguyện sẽ đem hết sức lực cuối đời mình cùng với
các đồng chí để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam ”.
===00===
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét