Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

  ĐẾN THĂM LẠI VÙNG 5 CỬA Ô HÀ NỘI XƯA
    (Nguyễn Hồng Trân-sưu tầm, khảo sát và tổng hợp)

Tôi đã sống học tập và làm việc tại Hà Nội cũng gần 20 năm, nhưng cũng không chú ý tìm hiểu kỹ về các cửa ô ở Thủ đô Hà Nội. Sau này, tôi từ Huế ra lại Hà Nội định cư và sống cùng con cháu, hằng năm cứ vào dịp ngày 10 tháng 10 kỷ niệm ngày đoàn quân ta về tiếp quản Thủ đô, bài hát TIẾN VỀ HÀ NỘI của nhạc sĩ Văn Cao cứ vang lên dồn dập đêm ngày nghe rất hào hùng. Trong lời ca đó có câu: "Năm cửa ô đón chào đoàn quân tiến về,… Hà Nội bừng tiếng quân ca…". Thế là tôi cứ nhớ lại thời trai trẻ của mình đã từng ở Hà Nội và cùng với bạn bè hát ca bài đó một cách say sưa, sôi nổi.
Vì vậy mà tôi cố tìm hiểu kỹ về 5 cửa ô xưa ở Hà Nội để biết rõ thêm về di tích lịch sử của chúng.  
1.Ô Quang Chưởng
Ô Quan Chưởng hay còn gọi là ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn (東河門, tức cửa phường Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô, mà cửa ô này là một trong 5 cửa ô lớn còn sót lại của thành Thăng Long cũ.[1]
Ngày nay, ô Quan Chưởng nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần chân cầu Chương Dương. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận phường Đông Hà, tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành.
Cổng xây có vọng lâu được canh gác và kiểm soát cẩn mật để giữ an ninh cho khu phố buôn bán bên trong. Hiện cửa ô còn nguyên lối tam quan với cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên nóc cửa chính có vọng lâu, tường phía trái cửa chính có gắn một tấm bia đá do Tổng đốc Hoàng Diệu cho đặt năm 1881 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán 東河門 (Đông Hà môn).
Ca dao về Ô Quan Chưởng có câu:
Long Thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây.
Tên gi
Tương truyền, tên gọi Ô Quan Chưởng bắt nguồn từ sự kiện xảy ra vào năm Tự Đức thứ 26, khi thực dân Pháp đánh thành Hà Nội (20 tháng 11 năm 1873). Sách Người và cảnh Hà Nội của cụ Hoàng Đạo Thúy đã ghi: "Song song với Hàng Đậu là Hàng Khoai. Dưới chợ là phố Mới, đầu phố chỗ gần bờ sông có cửa ô Quan Chưởng (cửa Đông Hà) còn nguyên cổng xây cũ, đoạn này gọi là phố Hàng Chiếu. Trước khi Tây sang, tên Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) gây cơ sở ở đây cùng với bọn khách trú, khi Francis Garnier đánh thành thì một ông Chưởng cơ, cùng một trăm chiến sĩ đã giữ thành này đến người cuối cùng!...". Tuy nhiên, sự kiện năm 1873 cho đến nay vẫn chưa được xác minh[2].
Chú thích
1.Từ điển đường phố Hà Nội Ô Quan Chưởng (đăng tại Hà Nội Mới online)
2.Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, Ô Quan Chưởng
                                         ==00==  
2.Ô Cầu Dền

Ô Cầu Dền tên chữ là Yên Ninh, là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm sau thành Thịnh Yên[1]. Ô Cầu Dền là một cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, xuất hiện trong sử từ thời Lý, thế kỷ XI - XII (Theo sách Đại Việt sử lược, quyển II, III, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1960).
Các cửa ô Hà Nội đã được nêu trong nhiều tác phẩm văn thơ, âm nhạc.
Hà Nội vui sao
Những cửa đầu ô
Tíu tít gánh gồng
Đây Ô chợ Dừa, kia Ô Cầu Dền
Làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm...
Lời ca bất hủ trên đây trong bài ca Người Hà Nội của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã làm xao xuyến hàng triệu con tim khi nhắc tới tên các cửa ô của Hà Nội.
Vị trí:
Ô Cầu Dền nằm ngã tư lớn nối phố Huế, Bạch Mai, Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt. Đây chính là vị trí của ô Cầu Dền ngày xưa.
Các tài liệu và bản đồ cũ cho chúng ta thấy rõ vị trí của địa danh này cố định và tồn tại khá lâu, ít ra là từ thế kỷ XVIII. Dưới triều Nguyễn, cửa ô Cầu Dền là cửa ô chính quan trọng nhất trên đường thiên lý. Đó là con đường nối liền Thăng Long với các trấn và các tỉnh phía Nam (vào kinh đô Huế) qua những đồi cây cối rậm rạp và cả một rừng mai (nay thuộc khu vực Bạch Mai, Trương Định). Năm 1782 Lê Hữu Trác lên kinh qua cửa ô Cầu Dền có tả như sau: "Tôi thấy một cái thổ thành không cao lắm, kế bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tường ngựa đi được; phía ngoài là hàng rào tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là mười phần kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có quân lính đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết. Lính giữ cửa thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến khi biết rõ đầu đuôi, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn thủ đất Nghệ An mới để cho đi".
Tên gọi:
Tên gọi Ô Cầu Dền Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho hay: trước đó, cái tên này đã xuất hiện ở cố đô Hoa Lư (Trường Yên, Ninh Bình) với tấm bia cổ, chiếc cầu đá bắc qua sông Hoàng Long và cũng là một cửa ngõ của kinh thành Hoa Lư. Vì lẽ đó, có tác giả đã cho rằng cái tên Ô Cầu Dền cũng như nhiều tên khác ở Hà Nội: Cầu Đông, Chợ Dừa, Đình Ngang... đã được Lý Thái Tổ mang từ cố đô Hoa Lư ra kinh đô mới Thăng Long cách đây nghìn năm trước.
Theo một tích khác cửa ô Cầu Dền lại chép: đời nhà Mạc, ở làng Kim Liên có một người học trò cha mẹ chết sớm, nhà nghèo, phải đi dạy học kiếm ăn qua ngày. Mấy năm đói kém, nhờ có mấy mẫu ruộng rau dền nên anh đã cứu giúp được nhiều người qua khỏi nạn đói. Vì thế, người ta gọi chỗ ở của anh là Cầu Dền. Các cụ cao niên ở đây vẫn còn nhớ vùng này xưa kia (và thậm chí cho đến những năm 1945 - 1954) có con sông nhỏ dẫn nước thải từ nội thành ra, hai bên bờ có đất bãi phù sa, rau màu quanh năm xanh tốt. Trong đó có rau dền là nhiều hơn cả. Chiếc cầu bắc qua con sông hai bên bờ có nhiều rau dền nên gọi là Cầu Dền.
3.Ô Đông Mác
Ô Đông Mác tên chữ là Thanh Lãng, là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm sau thành Lãng Yên[1]. Ô Đông Mác là một cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, Cửa Ô Đông Mác hiện tại đã mất hết hình tích cũ. Ngày xưa còn có tên Ô Đống Mác.
V trí:
Hiện nay, có phố Đống Mác nằm ở cuối phố Lò Đúc cũng là nơi gần vi trí Ô Đông Mác ngày xưa, giao nhau với đường Trần Khát Chân và đường Kim Ngưu, phía đông nam Hà Nội.
Là một trong những điểm bắt đầu của con đường thiên lý Bắc-Nam xưa, cửa ô này là nơi có thể đến bằng đường bộ lẫn đường thuỷ vào thành Thăng Long, nên thường có quân lính canh gác khá nghiêm ngặt.  
Tên gi:
Ô Đông Mác là tên cửa ô thời xưa, thời chúa Trịnh Sâm, (thế kỷ 18) có tên là ô Ông Mạc. Bản đồ Hà Nội năm 1831 gọi đây là cửa ô Thanh Lãng. Tới bản đồ năm 1866, cửa ô này được gọi là cửa ô Lãng Yên. Sang thế kỷ 20, người dân quen gọi là ô Đông Mác.
Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, Đông Mác còn có tên là Ông Mạc. Vì năm 1782, từ nội thành về bến Thanh Trì, Hải Thượng Lãn Ông đã đi qua cửa ô này và ghi trong Thượng kinh ký sự: "Ngày 10/9, từ sáng tinh mơ, tôi qua cửa ô Ông Mạc. Cửa chưa mở…."
                                       ==00==
 4.Ô Chợ Dừa
Ô Chợ Dừa tên chữ là Thịnh Quang, là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm về phía tây của kinh thành Thăng Long.
V trí:
Ô Chợ Dừa nằm ở ngã sáu của các phố Khâm Thiên, Tôn Đức Thắng, Đê La ThànhNguyễn Lương Bằng, Xã Đàn.
Tên gi:
Ô Chợ Dừa nơi có chợ nhỏ họp dưới hàng dừa rợp bóng bát ngát, một phần đã giải thích cái tên gọi quen thuộc của cửa ô, lại hiện lên với vẻ sầm uất, nhộn nhịp của cảnh chợ.
Theo ghi chép trong Thượng Kinh ký sự của cụ Lê Hữu Trác: " Một cái thành đất không cao lắm. Bên cạnh là một cái tường nhỏ, trên mặt tường là đường xe ngựa đi, ở mé ngoài hàng rào che kín mít. Dưới chân tường là hào sâu. Trong hào thả chông xem ra rất kiên cố. Thành có ba vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng, gươm súng sáng quắc ".
                                         ==00==
5.Ô Cầu giấy
Tên gọi:
Cửa ô này ngày xưa là mở sát làng làm nghề giấy.
Vi trí:
Ô Cầu Giấy thì là một cửa ô xẻ qua toả thành đất bao quanh khu đông dân cư của kinh thành Thăng Long xưa, được nhiều nhà nghiên cứu gọi là vòng thành giữa, mà bức tường phía tây chạy từ núi Sưa (trong vườn Bách Thảo) theo phố Ngọc Hà, vượt phố Sơn Tây, Nguyễn Thái Học, trở thành chính phố Giảng Võ ngày nay. Cửa ô này vốn có tên chữ Hán là Thanh Bảo và ở vào chỗ gần Bến xe Kim Mã bây giờ."
Ô Thanh Bảo mới có từ đời Nguyễn. Ô Cầu Giấy có từ thời Lý ở gần Cầu Giấy (có thể nằm trên đê đường Bưởi) thì đúng hơn.  
 "Nguyên ở khu vực đầu phía đông cây cầu vốn có một cửa của một toả thành mà bức tường phía tây chạy ven bờ trái sông Tô, từ chợ Bưởi xuống đến Cầu Giấy. Đó là toả thành đất mà Lý Thái Tổ cho đắp từ năm 1014. Việt sử thông giám cương mục có ghi: "Năm Giáp Dần (1014) đắp thành đất Thăng Long: bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất". Cái cửa phía tây này có tên là Tây Dương.



Không có nhận xét nào: