Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

                           TÔI ĐÃ BIẾT GÌ VỀ KHỔNG TỬ…
                                                      ==00==
           (Nguyễn Hồng Trân (cựu GV Đại học Khoa học –Huế)
Khổng Tử là một nhà hiền triết mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và kính trọng. Tại Hà Nội, có tượng thờ Khổng Tử trong Văn Miếu Quốc tử giám. Nhiều nhà thông thái, tài danh khắp nơi đã vinh danh Khổng Tử là”NGƯỜI THẦY TIÊU BIỂU CỦA MUÔN ĐỜI”.
1.Lai lịch và cuộc đời
*Ông tổ ba đời của Khổng Tử vốn gốc người nước Tống (Hà Nam), dời sang nước Lỗ (Sơn Đông). Thân phụ của Khổng Tử tên là Thúc Lương Ngột, làm quan võ, lấy bà vợ trước sinh được 9 người con gái. Bà vợ lẽ sinh được một người con trai có tật ở chân, đặt tên là Mạnh Bì. Khi đã về già(70 tuổi), ông Thúc Lương Ngột mới lấy bà Nhan Thị và sinh ra Khổng Tử, vào mùa đông, tháng 10 năm Canh Tuất, năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu, tức năm 551 trước Công nguyên Tây Lịch. Chuyện kể rằng bà Nhan Thị có lên núi Ni Khâu để cầu tự, vì thế khi sinh ra, Khổng Tử được đặt tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Có sách lại chép rằng Khổng Tử có tên là Khâu vì trán cao và gồ lên như cái gò, vì khâu theo ý nghĩa chữ Trung Hoa là cái gò.
  
Khi Khổng Tử lên 3 tuổi, thân phụ mất. Sách Sử không nói rõ về tuổi trẻ của Khổng Tử mà chỉ ghi rằng phu tử hay cùng các bạn nhỏ tuổi bày đồ cúng tế, một điều tỏ rõ bản tính quý trọng các điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, Khổng Tử lập gia đình và sau đó nhậm chức Ủy Lại với công việc là cai quản việc đong thóc ở kho, sau lại làm “Tu chức lại” coi việc nuôi bò, dê, để dùng vào việc cúng tế. Vào lúc này, Khổng Phu Tử đã nổi tiếng là một người tài giỏi vì vậy một vị quan nước Lỗ tên là Trọng Tôn Cồ đã cho hai người con theo học là Hà Kỵ và Nam Cung Quát.

Khổng Tử nghiên cứu về Nho Thuật nên rất chú ý đến các lễ nghi và phép tắc của các bậc đế vương đời trước và muốn tìm hiểu các bản văn, tài liệu, hình tượng liên hệ, thời đó đang được lưu trữ tại Lạc Dương là kinh đô của nhà Chu. Năm 28 hay 29 tuổi, Khổng Tử muốn đi Lạc Dương nhưng vì đường xa, lộ phí quá cao nên đã không thể đi được. Lúc bấy giờ người học trò cũ là Nam Cung Quát liền tâu với Lỗ Hầu và nhà vua đã cho Khổng Tử một cỗ xe hai con ngựa và vài người hầu hạ để ra đi.

Thời đó, người phụ trách tòa nhà lưu trữ các văn thư cổ ghi chép các biến cố từ thế kỷ thứ 23 trước Tây Lịch trở về sau là Lão Tử. Các văn kiện của thời đại đó được khắc bằng chữ cổ lên trên ngói, tre hay mu rùa. Lão Tử đã giúp Khổng Tử xử dụng các văn khố, sao chép tài liệu để về sau này dùng làm căn bản cho việc san định sách. Khổng Tử cũng học về “Lễ" với Lão Tử và về “Nhạc" với Trành Hoằng.
Năm Khổng Tử 51 tuổi, vua nước Lỗ mời ông làm quan Trung Đô Tể tức là vị quan quản trị kinh thành rồi thăng lên cấp Đại Tư Khấu (như Bộ Trưởng Tư Pháp ngày nay). Trong 4 năm đảm nhiệm chức vụ này, Khổng Tử đã đặt ra các phép tắc, đề ra việc cứu giúp các người nghèo khó, quy định việc chôn cất người chết... Nhờ luật lệ phân minh, mọi người dân được dạy bảo các điều lễ nghĩa, trai gái theo lễ giáo, kẻ gian phi không có.

Sau đó, vua nước Lỗ lại cất nhắc Khổng Tử lên chức Nhiếp Tướng Sự, được quyền bàn việc nước. Chuyện còn kể rằng khi cầm quyền, Khổng Tử đã cho giết kẻ gian thần là Nhiếp Chính Mão và giúp nước Lỗ trở thành một miền đất thanh bình, thịnh trị.

Vua nước Tề bên cạnh bèn tìm cách hãm hại nước Lỗ bằng cách đưa qua tặng vua Lỗ 80 gái đẹp và 30 ngựa tốt, khiến cho vua Lỗ đam mê. Vì thế Khổng Tử đã từ chức, rồi rời qua nước Vệ cùng một số môn đệ trong đó có Tử Lộ và Nhan Hồi là người học trò được ưa thích. Sau khi ở nước Vệ 10 tháng mà không được vua nước này trọng dụng, Khổng Tử lại đi qua nước Trần và trên đường đi tại đất Khuông, ông bị nhầm lẫn là Dương Hổ, một tên tàn bạo, nên bị quân lính vây hãm. Các môn đệ định xông ra chống cự nhưng Khổng Tử không cho phép và bảo thầy Tử Lộ đem đàn ra gẩy và chính mình hát theo, nhờ đó mới chứng tỏ được sự thực. Rồi trong thời gian ở nước Tống, Khổng Tử suýt bị ám hại bởi quan Tư Mã tên là Hoàn Khôi.

Sở dĩ Khổng Tử đi hết nước này qua nước kia vì chỉ muốn đem cái sở học của mình về trị dân để thuyết phục các bậc vua chúa nhưng vào thời kỳ loạn lạc đó, không bậc vương giả nào chú ý đến các điều lễ nghĩa của Khổng Tử. Có lẽ trong thời gian đi chu du thiên hạ này, trường phái Khổng Học đã được củng cố và số môn đệ theo học cũng gia tăng rất nhiều. Tính ra từ khi rời nước Lỗ, Khổng Tử đã đi qua tất cả 14 nước và trở về quê hương vào tuổi 68, có lẽ vào năm 484 trước Tây Lịch. 
Không có văn bản nào ghi lại các năm cuối đời của Khổng Tử song chắc chắn ông đã dùng quãng thời gian cuối cùng này để dạy học trò, đọc lại tất cả các tài liệu thu thập được trong các chuyến đi và biên soạn các tác phẩm. Những năm cuối cùng cũng là giai đoạn bất hạnh đối với Khổng Tử vì người con trai độc nhất của ông qua đời, rồi tới lượt Nhan Hồi là môn đệ yêu quý. Năm 480, Tử Lộ cũng chết vì trận mạc. Khổng Tử mất vào năm 497, thọ 72 tuổi, mộ chôn tại Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ thuộc tỉnh Sơn Đông hai dậm. Các môn đệ rất thương tiếc vị Thầy nên họ đã làm nhà bên mộ và để tang trong nhiều năm.

2. Các sách của Khổng Tử.

Khổng Tử được coi là một trong các nhà biên soạn một số sách cổ quan trọng nhất của Trung Hoa. Ông đã xếp đặt lại các văn thơ cổ trong cuốn Kinh Thi (the Book of Odes). Đây là bộ sách chép các bài ca, bài dao từ thời thượng cổ tới đời vua Bình Vương nhà Chu.

Bộ Kinh Thư (the Book of Documents) của Khổng Tử là một bộ sử rất có giá trị, đã ghi chép các lời vua tôi khuyên bảo nhau, từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu. Bộ Kinh Dịch (the Book of Changes) là bộ sách lý học, giải thích quan niệm của người Trung Hoa cổ xưa về cách biến hóa của trời đất, trong đó có cả cách bói toán để đoán trước điều lành dữ.

Khổng Tử đã soạn lại sách này nhưng giảng rõ thêm về phần đạo lý khiến cho sau này, Kinh Dịch là một bộ sách trọng yếu của Nho Giáo.

Bộ sách thứ tư của Khổng Tử là Kinh Lễ (the Records of). Đây là bộ sách ghi chép các lễ nghi để duy trì các tình cảm tốt, các phép tắc cư xử trong xã hội. Kinh Nhạc (the Book of Music) là bộ sách thứ năm, đã bị thiệt hại nhiều nhất do việc nhà Tần đốt sách.

Bộ sách quan trọng nhất và do chính Khổng Tử soạn ra là Kinh Xuân Thu (the Spring and Autumn Annals). Khổng Tử đã dùng lối viết sử để chép các chuyện về nước Lỗ, với đầy đủ niên biểu của 12 vị vua từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công, bắt đầu từ năm 722 tới năm 479 trước Tây Lịch. Đây là một bộ sách hàm chứa các triết lý về nền chính trị của nước Trung Hoa thời cổ.

Sau khi Khổng Tử đã qua đời, các môn đệ của ông đã biên soạn cuốn Luận Ngữ (the Analects = the Edited Conversations) ghi chép các đàm thoại của Khổng Tử với các vua quan và các môn đệ. Cuốn sách này nhấn mạnh tới nền triết học chính trị (political philosophy) của Khổng Tử.

Khổng Tử đã quan tâm tới sự vô đạo đức và thiếu đạo đức của các chính quyền thời đó và ông đã cố gắng tìm kiếm một vị vua chúa chấp nhận quan điểm của ông là phải dùng các tiêu chuẩn đạo đức làm nguyên tắc trong việc cai trị dân chúng.

Khổng Tử cho rằng việc chính trị trở nên tốt hay xấu là do nhà cai trị và người này phải mang lại hạnh phúc và an lạc cho người dân, muốn thế, bậc vua chuá phải làm gương tốt để ảnh hưởng đến hành động của những người khác.

Khổng Tử bác bỏ cách dùng luật pháp nghiêm ngặt và tin rằng dùng các tập quán về luân lý và sự hợp lẽ (compliance) là cách hay nhất để duy trì trật tự trong xã hội.

Tôn chỉ này của Khổng Tử được nói ra ở Kinh Xuân Thu với các ý nghĩa “chính danh và định phận", và một nước được thịnh trị vì nơi đó “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Khi danh phận đã được định rõ thì mọi người đều có địa vị chính đáng của mình, trên ra trên, dưới ra dưới, tất cả đều có trật tự phân minh.

Đây là chủ thuyết “Chính Danh” của Khổng Tử (the Rectification of Names). Khổng Tử coi những năm đầu của nhà Chu là có hình thức chính quyền tốt đẹp nhất.

Khổng Tử tự coi mình chỉ là người truyền lại các ý tưởng của Cổ Nhân đã có từ trước, tuy nhiên ông đã là nhà tư tưởng Trung Hoa đầu tiên đề cập tới các quan niệm căn bản không những của nền Khổng Học mà của nền Triết Học Trung Hoa. Năm điều căn bản này là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Khổng Tử tin rằng người “quân tử” không nhất thiết phải là một nhà quý tộc và người đó phải làm gương tốt về đạo đức cho các người khác noi theo.

Khổng Phu Tử quả là một nhà Nhân Bản, một trong các bậc Thầy vĩ đại của lịch sử Trung Hoa. Ảnh hưởng của ông đối với các môn đệ đương thời rất sâu rộng và những người này đã cắt nghĩa lý thuyết của Khổng Tử khiến cho tới đời nhà Tiền Hán (từ năm 206 trước Tây Lịch tới năm 8 sau TL), lý thuyết Khổng Giáo đã trở nên ý thức hệ của triều đại đó.

Quan niệm về bản tính Thiện của con người cùng sự quan trọng của đức tính Nhân và lòng Nhân Đạo trong chính trị và trong đời sống hàng ngày đã được sau này Mạnh Tử (Mencius) khai triển và được Tuân Tử đưa vào thực tế.

Do các điều giảng dạy đạo làm người rất thực tế và đầy lòng nhân ái. Đạo Khổng vẫn tiếp tục được coi là một triết lý sống rất mạnh và phổ thông tại Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Tại Văn Miếu Quốc tử giám ở Hà Nội đã có tượng thờ đức Khổng Tử cũng vì lý do là một nền giáo dục phải lấy đạo đức làm trọng mới tồn tại lâu dài và có ý nghĩa lớn trong xã hội.

 3.Một số danh ngôn của Khổng Tử
1.Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ!
(Học đi với hành, không chỉ nói cho qua chuyện)
2. Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.
( Trong việc trị quốc, phải thận trọng không hứa ẩu, biết đãi người hiền, phải được lòng dân).
3. Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. 
(Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết)
4. Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. 
(Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc)
5. Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị vị chi “văn ”dã. 
(Thông minh và hiếu học thì không thẹn hỏi kẻ dưới mình, Vậy mới thật gọi là có trình độ).
6. Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ. 
 (Nghĩ việc xưa để hiểu việc nay,là điều đáng làm thầy người khác).
7.Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. 
(Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc).
8. Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị vị chi “văn ”dã. 
(Thông minh và hiếu học thì không thẹn hỏi kẻ dưới mình, Vậy mới thật gọi là có học).
9. Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi. 
(Có thể làm cho dân theo con đường của ta, không thể làm cho họ biết hết gì).
10.Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính . 
(Không ở vị trí thích hợp, không nên toan tính chuyện).
11. Hậu sinh khả uý, yên tri lai giả chi bất như kim dã.  
( Lớp sau sẽ giỏi, biết đâu sau này không như ngày nay).
12. Tri giả bất hoặc; nhân giả bất ưu; dũng giả bất cụ.
(Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi).
13. Khắc kỷ phúc lễ, vi nhân .
(Cạnh tranh bất chính cho mình là lòng ích kỷ).
14. Kỷ sở bất dục, vật thi vu (ư) nhân .
(Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác).
15. Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh nhi bất tùng.
(Bản thân làm điều phải, không ra lệnh người ta cũng nghe; không đúng thì có ra lệnh người ta cũng không nghe).
16. Vô dục tốc; vô kiến tiểu lơi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành .
(Không làm nhanh, không ham lợi nhỏ. Làm nhanh dễ hư chuyện; thấy lợi nhỏ mà ham thì không thể làm nên chuyện lớn).
17. Hà dĩ báo đức chính dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức .
(Hãy lấy lẽ phải để đáp trả lại sự oán thù, dùng nhân đức để đáp lại người hiền).
18. Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu.
(Người không biết nhận thức sâu xa, ắt có ngày sẽ gặp phiền phức-âu lo).
19. Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn , tắc loạn đại mưu.
(Lời giả dối làm rồi loạn tâm thiện. Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hư chuyện đại sự).
20. Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ!
(Biết lỗi mà không sửa, đó chính là lỗi!)
21. Tính tương cận dã, tập tương viễn dã.
(Tương đương câu tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”).
22. Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chư tiểu nhân.
(Những kẻ ngoài mặt oai lệ mà trong lòng nhu nhược, thì ta coi là hạng tiểu nhân).
23. Đức bất cô, tất hữu lân .
(Người có đức khôngcô đơn, tất có bạn gần)
24. Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả.
(Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học. (Gs. Minh Chi dịch).
25. Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính
(Không ở vị trí thích hợp, không nên toan tính chuyện).
                                                                    =NHT=




Không có nhận xét nào: