NHỚ MÃI CỤ BÀ CỐ NỘI CỦA
TÔI
=**=
Cụ bà cố nội của tôi là Lê Thị Hoằng, ngày xưa người ta
thường gọi là bà Tú Khánh. Vì cụ cố ông là Nguyễn Bá Khánh, đỗ khoa Tú tài Hán
học. Trong Gia phả họ Nguyễn Bá ở làng Phú Long có ghi lại rằng, năm Tự Đức thứ 29, tức vào năm Bính Tí (1876), thi đậu
Tú Tài. Năm Thành Thái thứ 6(1894), được thưởng
danh vị Hàn Lâm viện Đãi chiếu. Cụ Khánh đã từng làm quan Ngự y tại triều đình
nhà Nguyễn thời vua Đồng Khánh.
Cụ Khánh khi làm
quan ngự y cho vua Đồng Khánh đã phải đổi tên là Nguyễn Bá Chước(kiêng trùng
tên vua). Đến hạ tuần tháng 12 năm Đồng Khánh thứ 3, nhà vua băng hà. Triều
đình cho Thị nữ Lưu Ngân(tức Lê Thị Hoằng) về quê ở làng Cổ Thành, Triệu Phong,
Quảng Trị. Lúc ấy cô Hoằng 17 tuổi. Đến 19 tuổi thì lấy chồng, bà làm vợ kế ông
Tú Chước (Khánh) người làng Phú Long, Hải Lăng, Quảng Trị. Ông Chước Là một thầy
thuốc Đông y danh tiếng; là con trai thứ 4 của ông Nguyễn Bá Văn (người có công
khai canh sáng lập ra làng Phú Long -gốc tích từ làng Phú Xuân Huế mà ra).
Bà Lê Thị Hoằng nổi tiếng là một người đàn bà có sắc, có
tài làm giàu nhờ biết cách sử dụng hợp lý đồng tiền do hai ông bà làm ra, đồng
thời biết khai thác nguồn lực sẵn có ở địa phương để phát triển kinh tế. Đó
cũng là có tài về năng lực trí tuệ, nhưng điều đó thì cũng không có gì là đặc
biệt vì cũng không ít người phụ nữ thời xưa đã làm được. Cái đặc biệt nhất của
bà Lê Thị Hoằng là người đàn bà biết rèn luyện sức khỏe dẻo dai, thể lực vững
vàng. Bà là người sinh con nhiều nhất ở tỉnh Quảng Trị và có thể là sinh con
vào loại nhiều trong cả nước. Chỉ có riêng bà đã sinh đến 20 người con với 8
con trai và 12 con gái. Về sau còn 14 người con(4 trai, 10 gái) sinh sống trưởng
thành đến gìa cả. Trong đó ông nội tôi là Nguyễn Bá Đàm(con trai thứ 2 của bà)
và ông cũng là một thầy thuốc Đông y có tiếng tại Thị trấn Diên Sanh thuộc huyện
Hải Lăng mà nhân dân thường gọi là ông Giáo Tiềm. Ông nội tôi là người con được
bà Hoằng rất quý mến vì đã nối nghiệp lương y được với người cha.
Bà Lê Thị Hoằng đã giúp chồng rất đắc lực trong việc chăm
sóc nuôi dạy con cháu biết tự tin, tự trọng và lo lắng việc học chữ, học nghề để
lập nghiệp vững vàng trong xã hội. Bà rất thông minh biết cách đối nhân xử thế
hài hòa có lí, có tình nên bà con làng xóm rất kính phục. Ngoài ra, bà còn biết
đọc sách chữ Hán Nôm một số tác phẩm ngày xưa như: Cung Oán ngâm khúc, Chinh phụ
ngâm, Truyện Kiều… Tôi còn nhớ hồi tôi còn là học trò 14,15 tuổi, cũng có mấy lần
được nghe bà giảng giải những đoạn thơ ý nghĩa hay trong các tác phẩm đó.
Ngày:6/6/năm Giáp Ngọ (1954), bà qua đời, hưởng thọ 81 tuổi.
Có lẽ hơn 60 năm qua ở cõi vĩnh hằng, bà chắc cũng tự hào rằng, các con cháu chắt
của bà đã tận tâm phụng sự cho Tổ quốc, cho nhân dân trong công cuộc chống giặc
ngoại xâm và sự nghiệp phát triển khoa học,văn hóa,xã hội.
Có một
con trai út (Nguyễn Cung Trứ) và một cháu nội(Nguyễn Bá Vui) là liệt sĩ thời chống
giặc Mỹ. Người con trai thứ ba là một nhà hoạt động chính trị có tiếng ở tỉnh
là ông Nguyễn Quýnh. Có hai người con trai là thầy thuốc Đông y (Nguyễn Bá Đàm
và Nguyễn Bá Chinh). Một số cháu chắt có học hàm, học vị như: Nguyễn Mạnh Duy-GS.TSKH
ngành điện; Nguyễn Thanh Sơn-TS.Điện lực; Nguyễn Thị Ngân Hà-TS.Ngôn ngữ-Văn học
Pháp; Nguyễn Kim Khánh-TS. CN thông tin…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét