Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

MÙA THU NGOẠN CẢNH TÂY HỒ (Bút ký)

       Bút ký: MÙA THU NGOẠN CẢNH TÂY HỒ
                          Nguyễn Hồng Trân
Cũng khá lâu rồi vợ chồng chúng tôi chưa có dịp dạo quanh Tây Hồ. Trước đây chúng tôi đã từng sống ở Hà Nội nhiều năm trong thời kỳ học tập và công tác. Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, chúng tôi trở về quê hương Trị- Thiên để phục vụ công tác giáo dục và y tế cho đến ngày nghỉ hưu vẫn thường trú ở tp. Huế. Thỉnh thoảng chúng tôi mới có dịp ra Hà Nội thăm con cháu, thăm bà con và bạn bè thân quen…
Lần này, ra chơi Hà Nội được dài ngày, chúng tôi quyết định đi ngắm cảnh ven Hồ Tây. Mùa thu ngoạn cảnh nơi đây sẽ có dịp nhớ lại những kỷ niệm xưa suốt một thời đáng nhớ của tuổi trẻ đã học tập và công tác tại Thủ đô Hà Nội.
Hồ Tây theo truyền thuyết ngày xưa có tên lúc đầu là Đầm Xác Cáo(1)  , sau đó có tên là Hồ Kim Ngưu(2) (Hồ Trâu Vàng). Đến Thế kỷ XVI thì đổi tên hồ thành Dâm Đàm (3). Và tên cuối cùng cho đến sau này hồ được đổi tên là Tây Hồ (4).
Để ngoạn cảnh Tây Hồ,trước tiên, chúng tôi đi dạo dọc con đường Thanh Niên mà ngày xưa gọi là đường Cổ Ngư. Đường này là ngăn cách Hồ Tây và Trúc Bạch. Hồ Trúc bạch ngày xưa cũng thuộc Hồ Tây, sau đó người ta đắp lên một con đê ngăn ra một vùng hồ nhỏ để nuôi cá và xung quanh hồ này trồng nhiều cây trúc để làm mành, làm rèm sáo che nắng, che mưa…Hồ Tây thì rất lớn (hơn 500 hecta và chu vi gần 18 Km), hồ Trúc Bạch thì nhỏ (chỉ vài chục hecta và chu vi chỉ hơn 6 Km). Hai bên con đường này những hàng cây xanh tỏa bóng râm xuống mặt đường thật mát mẻ dễ chịu. Từng đoạn, từng đoạn gần sát mép hồ đều có những chiếc ghế đá hướng ra mặt hồ để cho du khách dừng chân ngồi nghỉ ngơi, ngắm cảnh và chuyện trò tâm sự… Những chiếc ghế nơi đây cũng đã từng chứng kiến muôn vàn cuộc hẹn hò tình tứ của đôi lứa tình nhân ở Hà Nội và cả mọi nơi đến du chơi ngoạn cảnh.
Chúng tôi dạo bộ trên đường này một lúc rồi ghé vào tham quan lại chùa Trấn Quốc mà đã lâu lắm rôi chúng tôi chưa có dịp ghé thăm. Đây là một trong những ngôi chùa cổ của Hà Nội đã có từ thời Lý –Trần và cách đây khoảng 1500 năm. Ngôi chùa rất đẹp, nó tọa lạc trên hòn đảo nhỏ phía Đông của hồ, có ngọn tháp cao xinh xắn màu nâu đỏ. Nơi đây du khách hàng ngày ra vào tham quan tấp nập. Các sinh viên các trường thường đến viếng cảnh chùa để cầu nguyện; nhất là sinh viên trường Nghệ thuật đến ngắm cảnh chùa và vẽ tranh hoặc sáng tác lời ca, khúc nhạc…
 
(vợ chồng tác giả Nguyễn Hồng Trân và Thái Lê Phương ở Tây Hồ 10-2012)
Đến chùa Trấn Quốc làm tôi nhớ đến một sự kiện ngày xưa từ thời chúng tôi còn là sinh viên đến tham quan chùa này vào dịp hè năm 1959 thì được gặp đoàn đại biểu của Chính phủ Ấn Độ sang thăm nước ta do Tổng thống  Rajendra Prasad dẫn đầu ghé vào thăm chùa cùng đi với Bác Hồ. Lúc đó Tổng thống Ấn Độ có tặng cho nhà chùa một cây bồ đề Ấn Độ rất đẹp. Cây bồ đề ấy giờ đây đã sum xuê, to lớn và tỏa bóng mát cho cả một vùng rộng của sân chùa.
Chúng tôi đứng ở sân chùa nhìn ra Hồ Tây nước mênh mông xanh biếc và những làn sóng lăn tăn vỗ nhẹ vào các thành kè ven hồ nghe rất êm ái thanh bình. Nhìn xa xa giữa mặt hồ có nhiều tàu thuyền qua lại chở du khách dạo chơi đây đó tham quan những di tích, thắng cảnh ven hồ như đền Quán Thánh, cung Từ Hoa, chùa Kim Liên, điện Thụy Chương, phủ Tây Hồ…
Trên dọc đường đi ven bờ Hồ Tây, chúng tôi nghe vang vọng những bài ca, khúc nhạc du dương, trữ tình, trầm bổng trong chiều đông ấm áp. Lúc đó chúng tôi bỗng nhớ đến mấy câu ca dao ngày xưa quen thuộc:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Tiếp đó chúng tôi đi ngược lên phía làng Kẻ Bưởi (ngày xưa có tên là Yên Thái), nơi đây là cái nôi làng nghề làm giấy dó nổi tiếng, nhưng dân làng rất vất vả, người dân phải đi lấy cây dó trên rừng về, phải chặt khúc rồi dã nhỏ bằng cối chày cả ngày đêm mới kịp làm giấy. Có loại giấy quý làng này làm ra được dùng cho nhà vua ban Sắc phong cho các làng xã, tộc phái có sự kiện điển tích về lịch sử, văn hóa đáng được tôn vinh, trân trọng.
Sau khi ra khỏi làng này, chúng tôi lên thuyền du lịch đi về Phủ Tây Hồ(5) để viếng thăm, ngắm cảnh một địa danh linh thiêng của Thăng Long Hà Nội. Phủ Tây Hồ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, ngày xưa nó thuộc một làng cổ của kinh thành Thăng Long. Chúng tôi đến Phủ Tây Hồ không phải dịp lễ hội thường niên vào ngày rằm tháng Giêng nhưng dân chúng đến hành hương và tham quan cũng rất đông. Chúng tôi đi dạo khắp vùng này và thấy người ta đến đốt vàng mả, hương trầm khói lên nghi ngút lan tỏa khắp cả vòm cây mái ngói. Phủ Tây Hồ còn mang đậm nét cổ xưa ở các điện thờ, đền miếu… Nhất là quang cảnh xung quanh Phủ rất uy nghi, trầm tĩnh. Những cây si, cây sung, cây lộc vừng cổ thụ nghiêng mình sà thân cành gần sát mặt nước Hồ Tây tạo nên một dáng vẻ cổ kính linh thiêng. Đứng trong khung cảnh này, tôi cảm hứng làm mấy câu thơ với tựa đề:
CẢM CẢNH TÂY HỒ
Nước Tây Hồ mênh mông xanh biếc
Thuyền ngày đêm liên tiếp du chơi
Đàn chim bay liệng ngang trời
Như vui với cảnh cùng người tham quan
Đường ven hồ rộn ràng du khách
Tới đền chùa tấp nập hành hương
Người từ khắp cả bốn phương
Về đây cầu nguyện an đường sinh linh…

Trời về chiều, chúng tôi lên thuyền ra giữa Hồ Tây rồi hướng về phía làng Thụy Khê để ngắm cảnh chiều hôm ở một vùng quê ven hồ. Lúc đó trên bầu trời Tây Hồ những đàn chim đang bay chầm chậm thành hàng như hẹn nhau trở về tổ. Bỗng nhiên có một cơn gió mạnh thổi qua làm thuyền chở chúng tôi rung rinh, chồng chềnh, cánh buồm nghiêng ngả và thấy đàn chim trên trời cũng hối hả bay nhanh. Thế là tự nhiên trong lòng tôi cảm thấy lo lo, sợ một cơn lốc đột ngột sẽ lật thuyền như chuyện chìm thuyền của đoàn nghệ thuật Trung Quốc khi chiều tối dạo chơi trên Hồ Tây vào đêm 11-9-1956. Các cụ già hồi đó ở gần Hồ Tây đã kể lại rằng, đoàn thuyền chở đoàn nghệ thuật TQ vừa ra đến giữa Hồ Tây thì đột ngột có một cơn lốc mạnh hất tung cả đoàn xuống hồ. Lúc ấy mọi người hốt hoảng không ngờ việc thiên tai ập đến bất ngờ cho đoàn TQ như thế. Đội cấp cứu đã tích cực cứu nạn được một số người, còn 9 người TQ mất tích. Mặc dù đã chăng lưới tìm kiếm cả đêm, nhưng vẫn không thấy. Hôm sau mới tìm được thi thể của 9 cô gái chưa chồng trong đoàn múa hoa sen của TQ, trong đó có cô Khương Nãi Tuệ là nữ nghệ sĩ múa có tiếng của TQ và một tay sáo danh tiếng là Phùng Tử Tồn cũng bị chết trong đêm hôm ấy. Thật là một chuyện chưa từng xẩy ra ở Hồ Tây từ xưa đến nay như thế!
Sau cơn gió mạnh thổi qua, chúng tôi đang ngồi trên thuyền mà vẫn không lo, cứ ung dung chuyện trò vui vẻ. Nhìn về phía gần bờ làng Thụy Khê có mấy chiếc thuyền nan có những người trên thuyền và dưới nước để vớt rong, mò ốc, bắt cá… cứ râm ran chuyện làm ăn kinh tế. Đặc biệt ở Hồ Tây người ta nuôi loài tôm càng xanh rất phát triển và đem lại nguồn lợi kinh tế khá cao. Trước đây, hàng năm người nuôi tôm càng xanh thu hoạch đến 40 tấn/ năm.  Qua thực tế ẩm thực, chúng tôi cũng biết về các loài cá, loài ốc và tôm ở Tây Hồ rất ngon. Vì thế một số hàng quán nhậu ở ven bờ với các món cá hấp, cá chiên, bún ốc, bánh tôm, v.v…lúc nào cũng đông khách thưởng thức. Ngoài ra, những người sống ven hồ còn cho biết thêm rằng, có một số tổ chức nuôi trồng sinh vật hồ đang nuôi loài cá hồi và nuôi trai lấy ngọc. Điều đó có nhiều hy vọng phát triển nghề nuôi thủy sản ở Tây Hồ được ổn định và bền vững, nếu chúng ta có biện pháp bảo vệ môi trường được tốt, không bị ô nhiễm nặng triền miên.
Sau khi rời khỏi thuyền lên bờ, chúng tôi đi bách bộ một đoạn quanh bờ hồ. Quang cảnh ở đây đã khác nhiều so với ngày xưa. Những hàng cây cau Tây, phượng vĩ, bằng lăng, hoa sữa … như thích thú với đất trời, hồ nước xanh trong và cứ thi nhau vươn mình lung lay thân cành trong gió chiều lộng mát.
Ngày nay con đường bao quanh phía Tây của hồ mang tên Lạc Long Quân, còn đường bao quanh phía Đông chạy dọc đê sông Hồng từ Nghi Tàm đến Nhật Tân là đường Âu Cơ.
Đi một lúc ngắm nhìn đó đây thư giãn tâm hồn, chúng tôi dừng chân ngồi lên ghế đá nhìn ra mặt hồ và hít thở không khí trong lành rồi cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa vào cái thời trẻ trung của cuộc đời sinh viên đã từng đi dạo quanh Tây Hồ với bao nhiêu tâm tình, ước vọng…
Ôi! Mùa thu ngoạn cảnh Tây Hồ thật là thú vị và vấn vương, thương nhớ bung lung, nhớ cảnh vật, nhớ tình người, nhớ hoài!nhớ mãi!..
        Hà Nội, Quý thu, năm Nhâm Thìn = 2012
Chú thích: (1) Đầm Xá Cáo: Theo truyền thuyết là nơi đây hang con cáo chín đuôi thường phá hại dân lành, bị Long Quân dâng nước lên công phá, giết chết con cáo đó và xác cáo phơi trên mặt đầm (đầm là vùng trũng có nước và có cả bùn lầy, lau sậy mọc um tùm).
(2) Hồ Kim Ngưu dựa theo truyền thuyết hồ Trâu Vàng. Truyện kể về một người khổng lồ ở đất Việt, sức khỏe phi thường, không ai địch nổi. Ông xuất gia làm thiền sư, đó chính là thiền sư Minh Không. Thiền sư Minh Không sang Tàu chữa bệnh cho con vua Tống. Khi công việc hoàn thành, vua muốn trả ơn. Nhà sư chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Vua Tàu đồng ý cho thiền sư tự ý vào kho lấy đồng. Thiền sư đã lấy đồng đen đem về nước Nam. Về đến Thăng Long, ông dùng số đồng đó đúc thành bốn thứ bảo khí nhà Phật: Tượng Phật, tháp Báo Thiên, đỉnh đồng và một quả chuông đồng rất lớn. Chuông đúc xong, đức vua sai ông đánh một hồi chuông dài để báo hiệu cho dân chúng biết tin vui nước nhà đang thái bình thịnh trị! Tiếng chuông ngân đến tận kinh đô bên Tàu. Nghe tiếng chuông con trâu bằng vàng to lớn nằm trước kho đồng bên Tàu tự dưng bừng tỉnh "Đồng đen là mẹ của vàng" ngỡ là tiếng mẹ gọi nó liền vươn mình phóng thẳng xuống phương Nam tìm đến quả chuông khổng lồ, quần mãi xung quanh khiến cho cả một vùng đất lớn quanh quả chuông sụt xuống thành một vùng hố sâu và nước tràn đầy trải rộng thành một hồ nước mênh mông.
(3) Dâm Đàm: Theo sách Hồn sử Việt thì khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, hồ Kim Ngưu trở thành một địa điểm du ngoại được nhà vua và các quan ưa thích, nhiều lần trong các buổi du thuyền trên hồ, nhà vua gặp sương mù bao phủ, cảnh tượng hồ trở nêm huyền ảo mộng mơ, vì vậy hồ đã được đổi tên là Dâm Đàm.
(4)Tây Hồ: Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ. Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo chữ nghĩa  Trung Quốc là chuyện bình thường. Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
(5)Phủ Tây Hồ:nơi đây ngày xưa có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá rồi tôn vinh lên thành đức Thánh Mẫu . Hàng năm vào rằm tháng Giêng âm lịch, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ cầu mong Thánh Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn; vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ. 


Không có nhận xét nào: