SỰ TÍCH NGÀY LỄ VU LAN
- RẰM THÁNG BẢY HẰNG NĂM
*******
Nguyễn Hồng Trân (sưu tầm & giới thiệu)
Hằng năm vào ngày rằm tháng bảy ở Việt Nam ta cũng như mọt vài nước Châu Á như Trung Hoa, Ấn độ, Nhật Bản… đều tổ chức lễ xá tội vong nhân, báo hiếu cho cha mẹ và các bậc giáo dưỡng sinh thành. Giới tăng ni Phật tử gọi lễ này là lễ VU LAN. Còn cúng lễ Cô hồn như dân gian ta thường nói cũng trùng với ngày 15/7 Âm lịch, nhưng lại có ý nghĩa khác. Chúng ta đừng nên nhầm lẫn hai ý nghĩa cúng lễ trùng ngày rằm tháng bảy ấy !
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của ông Ma Ha Một Đạc Già La, thường gọi là Đại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và đã trở thành một đệ tử lớn của Phật và đạt được 6 phép thần thông rồi mới liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong làng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A Lan hán, Mục liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ hàn mà tìm thì thấy mẹ đã bị đọa đày vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi đại ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm nhưng chưa kịp cho mẹ ăn thì cơm đã biến thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Đức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ.
Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu chữa được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiểu thảo của ông có thấu đất trời, thần thánh cũng chịu. Phải nhờ uy đức cầu chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu giúp cho mới được. Vì vậy Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước các chư tăng khắp thập phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được 4 quả thánh hoặc đã đạt được 6 phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh của mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy. Nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng, chiếu gối, chăn màn quần áo, thau chậu, khăn tay và các thứ vật dụng khác. Đúng vào ngày Rằm tháng Bảy thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Đức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà 7 đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng lời Phật dạy. Quả nhiên, mẫu thân của ông đã được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ ma sanh để về với cảnh giới an lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. Do đó ngày rằm tháng 7 được gọi là ngày Vu Lan. Từ Vu Lan theo xuất xứ từ cổ và phiên sang Hán ngữ có nghĩa là giải thoát (giải thoát những điều oan trái, khổ đau...).
Sau này vào dịp lễ VU LAN các Phật tử đến các chùa dự lễ đều được gắn hoa hồng đỏ (cho người còn cha mẹ), hoa trắng hồng(cho người còn cha hoặc mẹ); hoa hồng trắng (cho người không còn cha mẹ). Đó là một nét đẹp thanh cao biểu hiện trong ngày lễ VU LAN.
Lễ VU LAN này và lễ cúng Cô hồn không phải là một. Hai lễ khác nhau nhưng cùng trong một ngày rằm tháng Bảy cả.
Sự tích ngày cúng cô hồn là: cứ theo “Phật thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh” mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Đà (A Nan), với một con quỷ miệng lửa(diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy(diệm nhiện). Có một buổi tối A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài miệng phun ra lửa bước vào. Con quỷ cho biết rằng 3 ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỹ với miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói:”Ngay mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa mỗi hộc thức ăn, lại vì chúng tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng tuổi thọ mà tôi đây cũng sẽ sanh về cõi trên. A Nan đem chuyện bạch với Đức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “ Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng Diệm Khẩu (tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa bớt khổ ải hung tàn). Dân gian thì hiểu rộng ra là cúng cô hồn (tức là cúng bố thí cho những vong hồn vật vờ đó đây không nơi nương tựa) vì không có ai thân nhân trên trần gian cúng bái. Tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói. Cúng cô hồn từ cái nghĩa gốc là quy miệng lửa thì nay là cúng cô hồn. Điều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn như đã nói ở trên. Phóng diệm khẩu nghĩa là “thả quỷ miệng lửa”. Về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành “tha tội cho tất cả những người chết”. Vì vậy ngày nay mới có câu: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.
Như vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên; một đằng thì liên quan đến chuyện ông A Nan . Nghĩa là một lễ thì cầu siêu cho cha mẹ và ông bà 7 đời, còn lễ kia là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Nói tóm lại, một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước.
Sự khác nhau rõ ràng là như vậy, nhưng người ta vẫn cứ nhầm lẫn.
(Đoạn này trích dẫn từ bài của AN CHI HUỆ THIÊN thành viên trong ban giảng huấn - lớp Gia giáo luyện dịch Hán Tạng, chù Viện Giác Tân Bình, TP HCM, trong Nguyệt San số 102 -tháng 8 năm 2005).
Dân gian ta, hằng năm đều nhớ tới việc cúng lễ VU LAN và cô hồn đều thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa của mình đối với mẹ cha và các bậc tiên tổ mà thành kính cầu siêu Vu Lan, còn cúng lễ Cô hồn là tích đức làm phước cho những linh hồn không nơi nương tựa trong trời đất. Đó là một nét đẹp của Văn hóa của dân tộc mang đậm ý nghĩa nhân văn trong sáng được tồn tại qua bao đời nay trên đất nước ta. Chúng ta nên duy trì các lễ đó một cách hợp lý tiết kiệm mà không nên khuếch đại rườm rà tốn kém lãng phí vô ích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét