SỨC MẠNH CHÍNH NGHĨA
CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP VIỆT NAM 2-9-1945
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong cuộc meeting lớn trước hàng chục vạn đồng bào Việt Nam tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn độc lập ấy đã trải qua 68 năm trời mà vẫn còn còn vang dội nồng nàn sức mạnh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam .
Ngay vào những lời đầu tiên của bản Tuyên ngôn đã thể hiện một sự khẳng định chân lý nhân quyền trong một đất nước là gì và nó thiêng liêng như thế nào:
“Hỡi đồng bào cả nước!
Tất cả mọi người đều sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Nói đến đây, Hồ chủ tịch nhìn xuống cả biển người đang chú ý lắng nghe và hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”
Mọi người hớn hở đồng thanh cất tiếng vang lên: “Rõ rồi ạ!”
Người lại tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của chân lý đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên hệ sắc bén với những bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng của các nước Mỹ và Pháp để làm tăng thêm giá trị của bản tuyên ngôn. Người đọc dõng dạc từng chữ, từng câu:
“Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Tiếp đó là Người đã mạnh dạn vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp đã dùng lời lẽ mỹ miều mị dân để tuyên truyền chính sách công bằng bác ái đối với dân thuộc địa nhằm lừa bịp dân chúng Việt Nam . Chúng tưởng rằng chúng có thể che lấp được những âm mưu thâm độc và tội ác của chúng đối với nhân dân Việt Nam ta trong một chuỗi năm trường nô lệ. Nhưng nhân dân Việt Nam đã thấy rõ chân tướng của chúng là muốn làm cho ngu dân, không cho dân chúng được hưởng quyền tự do dân chủ trong cuộc sống. Do đó Người không ngần ngại vạch trần bộ mặt thật của chúng:
“Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”.
Bản tuyên ngôn độc lập của Người cũng đã dẫn chứng ra cho cả thế giới biết về chính sách cai trị của thực dân Pháp thật là thâm độc,dã man:
“Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Không những về mặt chính trị- xã hội mà về kinh tế, văn hoá đều bị chúng khống chế và thao túng theo ý đồ của chúng. Đó là:
“Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
Mặt khác, bản tuyên ngôn cũng đã nêu lên được cái thực trạng thảm hại của đất nước Việt Nam trong giai đoạn biến cố Nhật Pháp để dân ta và cả thế giới hiểu rõ cái thái độ của Chính phủ Pháp:
“Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Mặc dù thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam như vậy, nhưng dân ta vẫn có thái độ xử sự với người Pháp một cách nhân đạo. Bản tuyên ngôn cũng đã dẫn chứng lên điều đó:
“Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”
Bản tuyên ngôn đã khẳng định lại rõ ràng vấn đề tình hình Việt Nam trong giai đoạn cuối để đi đến tổng khởi nghĩa giành chính quyền, thực hiện nền độc lập dân tộc:
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hoà”.
Cùng với những vấn đề nóng hổi cần thiết đã nêu trên, bản tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố cho đồng bào cả nước và thế giới biết về vai trò và nhiệm vụ của Chính phủ lâm thời trước vận mệnh của đất nước mới hình thành và cũng nói rõ thái độ của Chính phủ mới trước mọi tình thế xẩy ra:
“Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Cuối cùng của bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quan điểm và trọng trách của Chính Phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước quốc dân đồng bào cả nước và thế giới:
“Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Có thể nói rằng, Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã nói lên ý chí, nguyện vọng của một dân tộc sau 80 nô lệ đau khổ dưới ách thực dân Pháp đã vùng lên giành lấy độc lập tự do cho dân tộc. Một nền độc lập chính đáng. Đây là một bản tuyên ngôn đầy sức mạnh chính nghĩa và có một sức thuyết phục lớn lao đối với mọi người trong và ngoài nước suốt 68 năm qua. ]
==00==
Ghi chú: Tác giả Nguyễn Hồng Trân- nguyên là Giảng viên chính, trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là trường ĐH Khoa học Huế),là hội viên Hội Khoa học lịch sử Việt Nam .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét