Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

TÌM HIỂU SỐ TỬ VI NHƯ THẾ NÀO?
KHOA HỌC HAY MÊ TÍN ?
***
                            Nguyễn Hồng Trân

          Môn phái "số tử vi" (STV) từ Trung Quốc truyền sang Việt nam ta từ thủa xa xưa và cũng không ai biết được chính xác nó đã xuất hiện ở nước ta vào thời kỳ nào. Tuy vậy, qua các sách vở lưu truyền lại, người ta cũng đã biết ông Tổ Sư của môn phái STV này là do ông Trần Đoàn tức là Hi Di Tử thời nhà Tống Trung Quốc (năm 966-980) sáng lập ra. Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Qúy Đôn cũng xác nhận như thế. Về sau, các nhà Tử Vi học cứ diễn dịch, triễn khai dần dần thành một môn Tử Vi chính thống. Ở Việt Nam ta cũng xuất hiện một số sách về STV của các tác giả như Vân Đằng Thái Thử Lang, Nguyễn Phước Lộc, Nguyễn Mạnh Bảo v.v...
          Cách thức lập lá số và phép luận giải rất bài bản, công phu. Cơ sở phương pháp luận của STV  là dựa vào thuyết "ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH". Do đo, vấn đề STV làm cho nhiều người xưa và nay càng thêm quan tâm tìm hiểu.
Thực ra vấn đề STV có hay, dở ra sao còn phụ  thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố khả năng, tài nghệ của người lý giải. Còn về mặt khoa học nó đạt mức độ nào cũng chưa ai đánh giá, tổng kết một cách khách quan, sát thực.
          Theo quan điểm của các nhà chiêm tinh học Trung Quốc đã cho hay rằng: mỗi con người ta sinh ra trong một thời điểm nào đó (năm, tháng, ngày, giờ  âm lịch) thì đều có các vì sao tương thích trong vũ trụ tác động vào cơ thể của người ấy và làm ảnh hưởng đến toàn diện cuộc đời nhân sinh về trí tuệ, tình cảm, sức khỏe, sở trường v.v... Từ đó, các nhà Tử Vi học đã nghiên cứu , sắp xếp và quy định được 14 vì sao chính và 97 sao phụ. Tất cả các loại sao đều được phân vị theo quy tắc kết hợp hoặc riêng biệt và tác động lên 12 cung đời của từng người trong bản đồ lá STV. Đó là cung:   Bổn mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Ách tật, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ .
  
          Cung mệnh được an vị đầu tiên theo tháng và giờ sinh, còn các cung sau lần lượt theo chiều thuận kim đồng hồ mà định vị trong từng ô của lá số theo thứ tự: mệnh, phụ mẫu, phúc đức ... còn có cung thân không cố định riêng, là cung ngụ cư tại một cung nào đó, tuỳ theo đặc điểm của lá số. Cung thân an vị cũng theo tháng và giờ sinh như cung mệnh chỉ khác là chiều tính giờ thì ngược lại.

          Các sao chính có 14 sao. Sao Tử  vi làm chủ hệ. Nó được an vị theo ngày sinh và phụ thuộc vào bản cục của đương số còn các sao khác phụ thuộc vào sao Tử Vi và định cư theo quy tắc riêng. Thí dụ: Sao Thiên phủ bao giờ cũng ở vị trí đối xứng qua đường chéo Dần - Thân của lá số. Nếu Tử Vi ở Tý thì Thiên phủ ở Thìn; Tử vi ở Tuất thì Thiên phủ ở Ngọ v.v... 14 sao chính được sắp xếp thành  hai vòng trong các ô của lá số.
         Vòng thứ  nhất bắt đầu từ sao Tử Vi (cách 3 ô) đến sao Liêm trinh (cách 2 ô)đến sao Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương (cách 1 ô) đến Thiên Cơ. Vòng thứ hai từ sao Thiên Phủ; tiếp Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát (cách 3 ô) đến Phá Quân.
          Các sao phụ có nhiều loại như Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tuần, Triệt v,v... mỗi loại sao an vị theo cách riêng của nó.
          Quá trình luận giải lá STV gồm 2 bước: Bước đầu là sơ giải, bước sau là tinh giải. Bước sơ giải là xem xét yếu tố Sinh - Khắc giữa bản Cục và bản Mệnh như thế nào. Nếu Cục sinh Mệnh thì Mệnh thịnh Vượng. Thí dụ: Cục  Hỏa, Mệnh Thổ; Nếu Cục khắc Mệnh thì Mệnh suy. Thí dụ: Cục Thủy, Mệnh Hỏa. Sau đó phải xem sao Tử Vi đóng ở cung nào để biết ý nghĩa thuộc tính thuận nghịch ra sao? Nếu sao Tử  Vi đóng tại cung Tý, Hợi, Mão, Dậu là bình địa (tức là bình thường); tại Sữu, Mùi là đắc địa (thuận lợi); tại Thìn, Tuất là vượng địa (khá thuận lợi);tại Dần, Thân, Tỵ, Ngọ là Miếu địa (rất thuận lợi). Còn 13 sao chính khác thì có thêm thuộc tính hãm địa (bất lợi).
          Trong bước sơ giải này cũng phải liên hệ với các cung đời(Mệnh, Phụ, Phúc...) cung địa chi (Tý, Sữu, Dần, Mão...) để có được những thông tin về ý nghĩa.
          Lưu ý rằng: các cung địa chi thì luôn luôn cố định, còn các cung đời thì di động tùy thuộc vào cung mệnh mà các cung khác xếp đặt liên tiếp theo sau (như đã nêu ở trên). Riêng cung Thân là cung ngụ cư vào một cung khác nào đó thì phải chịu ảnh hưởng lớn vào cung ấy. Chẳng hạn Thân cư ở cung Mệnh  thì có nghĩa  bản thân tự lập, tự làm nên sự nghiệp; nếu Thân cư ở cung Thê thì được nhờ vợ, phụ thuộc nhiều vào vợ, vợ định đoạt mọi việc trong nhà; Thân cư ở cung Quan lộc là nhờ vào đường công danh, sự nghiệp mà phát đạt, có uy quyền tín nhiệm. Thông thường cung Thân được luận giải cho người từ 30 tuổi trở lên.
          Sang bước thứ hai là bước tinh giải. Bước này là giải tỷ mỷ tinh tường, phải cân nhắc mức độ ảnh hưởng của từng sao chính và sao phụ ở trong từng cung, kết hợp với các phép xung chiếu, hợp chiếu để giải đoán. Trong đó, quan trọng nhất là xung chiếu (tức là dựa vào các sao có trong cung đối xứng qua tâm lá số).  Thí dụ: cung xung chiếu của cung Dần là cung Thân. Quá trình luận giải từng cung đời chủ yếu là phân tích ý nghĩa của từng sao trong cung chủ định rồi liên hệ với tính chất các sao trong xung chiếu rồi tổng hợp lại thành nội dung của vấn đề giải được. Chẳng hạn về cung Mệnh, cung Thân thì phải giải được về cốt cách, tinh thần, tính tình, vận mệnh, thọ yểu ra sao; cung Ách tật thì giải xem về sức khỏe, bệnh tật, tai họa ở mức độ nào; cung Tử tức là xem con cái nhiều ít, con đầu trai hay gái, con cái dễ nuôi hay khó nuôi, có được nhờ con cái không v.v...
          Sau khi giải xong 12 cung đời là giải sang Đại hạn (10 năm) và Tiểu hạn (1 năm) để biết một số điều tác động đáng kể trong vòng hạn đó đến bản thân như thế nào...
          Qua gần 20 năm quan tâm tìm hiểu và luận giải STV cho nhiều người(226 người) để nghiên cứu thực chất của vấn đề này, chúng tôi thấy rằng: tỷ lệ giải đúng theo sách so với thực tế chỉ đạt tới khoảng 60%  là cao nhất (đối với các cung Mệnh, Thân, Quan lộc, Tài bạch, Thiên di, Ách tật); các cung khác chỉ đúng khoảng 50% . Riêng các cung Phụ Mẫu, Phúc đức, Điền trạch tỷ lệ đúng là thấp nhất, chỉ độ 30%  mà thôi. Xin nêu dẫn chứng một trường hợp kỳ lạ là kết quả giải 2 lá STV cho hai anh em ruột mà một người thì bố mẹ thọ bách niên giai lão, còn người kia thì bố chết sớm, mẹ đi thêm bước nữa.
          Qua những thực tế mâu thuẫn đó, chúng tôi thấy rằng về cách thức luận giải lá STV theo sách vở xưa và nay của Tàu và ta vẫn có một cái gì đó chưa ổn. Những kết quả của luận giải có nhiều chỗ mâu thuẫn với thực tế của cuộc đời. Mặc dù quy trình tạo lập lá số và cách thức luận giải nội dung rất là bài bản; có quy tắc chặt chẽ, rõ ràng.
Chính nhờ đó mà các nhà toán tin, công nghệ thông tin Việt Nam và ngoại quốc ngày nay đã tiến hành lập trình, tạo ra được các phần mềm chấm STV và giải đoán lá STV. Các phần mềm này được cài trên các trang mạng như Vietlyso.com;  Tuviglobal.com; Opera.com; lyhocdongphuong.org.vn; chạy được trên các máy vi tính hiện nay có giao diện màn hình đẹp, lá số rõ ràng dễ xem. Nhưng tiếc thay về phần luận giải lá số thì khó mà tin được nhiều. Vì kết quả giải ra thường cứ trùng lặp, có một số câu lý giải chung chung, giống nhau về nội dung trong những lá số khác nhau. Có lẽ "từ điển giải mã" của các nhà Tử vi học ngày xưa vẫn còn có những chỗ khiếm khuyết mà lâu nay chưa ai đủ điều kiện nghiên cứu thật sâu để bổ sung hoàn chỉnh. Hoặc có thể những nhà lập trình học môn Tử vi học chưa hiểu sâu hết các mối liên hệ giữa các sao chính, sao phụ đóng ở các cung trong lá STV. Cũng không phải vì thế mà chúng ta nghi ngờ rằng STV là phương sách giả tạo của các nhà chiêm tinh học phong kiến thời xưa để nhằm ổn định tâm lý, đạo đức cho mọi người trong xã hội. Bởi vì các nhà Tử vi học không dễ dàng gì mà đánh lừa được nhiều nhà thông thái trong xã hội. Qua thực tế, cái gì thực sự nghiệm đúng được nhiều thì người ta mới tin và nó mới tồn tại lâu dài. Chẳng hạn chuyện thực về Trần Thái Tông đã giải đoán STV và  biết trước đuợc ngày mất của mình là ngày mồng một tháng tư năm Đinh Sửu (1277)[Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, trang 39]. Mặt khác, cũng không phải vì một số điều giải đoán STV  chính xác với thực tế mà chúng ta quá sùng bái STV đến mức mê tín. Từ đó dễ sinh ra những tâm lý lo âu, sợ hãi hoặc vui sướng, lạc quan hão huyền. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đến hạnh phúc gia đình và quan hệ  bà con, bạn bè trong xã hội.

          Trải qua thực tế nhiều năm khảo sát, nghiên cứu vấn đề STV, chúng tôi xin mạnh dạn nêu lên mấy ý kiến sau đây:
          1.Môn phái Tử vi học, theo chúng tôi nghĩ là nó có phần nào mang tính khoa học. Bởi vì nó dựa theo phương pháp luận là thuyết âm dương ngũ hành phương Đông - Thuyết này đã được nhiều Hội đồng khoa học của các nước thừa nhận và đã ứng dụng vào y dược học, châm cứu, luyện tập dưỡng sinh, trong lịch pháp, trong thời vụ nông nghiệp v.v... có hiệu quả.
          2.Cách luận giải STV có vẻ thâm thúy nhưng chưa tạo được những mạch tư duy lôgích giữa những diễn biến của các vấn đề khi luận giải. Do vậy, có nhiều trường hợp phát sinh mâu thuẫn thì không giải quyết được. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì ngày xưa những thầy Tử vi học viết sách luận giải theo chủ quan suy đoán  của mình. Lúc đó chưa đủ các điều kiện về phương pháp toán học, tin học vi tính như bây giờ để rà xét lại những kết quả giải đoán mà hoàn chỉnh và tối ưu hóa dần.
          3.Ngày nay, chúng ta có thuận lợi về các phương tiện hiện đại thì có thể đi sâu để tìm ra được bản chất của vấn đề.

          Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian không xa nữa, những ai đã quan tâm đến vấn đề này thì cùng nhau hợp lực nghiên cứu để có thể đi đến thống nhất được ý kiến về STV là khoa học hay là mê tín?
Qua nhiều năm nghiên cứu và thực hành giải đoán STV, tôi vẫn cho rằng:
STV không hẳn là mê tín mà cũng không hoàn toàn thật sự là khoa học, nó chỉ mang màu sắc khoa học mà thôi. Đến nay, chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chính xác được điều đó.


Không có nhận xét nào: